Tai biến mạch máu não là một thuật ngữ
chung để chỉ các bệnh nhồi máu não (do tắc mạch não) và chảy máu não (do xuất
huyết não).Bệnh hay gặp ở người lớn tuổi.
Tai biến mạch máu não có hai loại: nhồi máu não (do tắc mạch)
hoặc chảy máu não (do vỡ mạch). Các triệu chứng thần kinh trung ương khu trú
biểu hiện nhanh, ngay tức thì khi tổn thương mạch máu não xảy ra, nên tai biến
mạch máu não còn được gọi là đột quỵ. Đột quỵ là bệnh của hệ thần kinh phổ biến
nhất hiện nay.
Các yếu tố nguy cơ:
Tăng huyết áp, hút thuốc
lá, đái tháo đường, một số bệnh tim (bệnh van tim, thiếu máu cơ tim, rung nhĩ),
bệnh mạch máu ngoại biên, tiền căn thiếu máu cục bộ thoáng qua, tăng thể tích
hồng cầu, phụ nữ vừa hút thuốc lá vừa dùng thuốc tránh thai nội tiết tố, tăng
chất béo trong máu, lạm dụng thức uống có cồn (rượu, bia), rối loạn chức năng
đông máu.
Những ai có nguy cơ bị tai biến mạch máu não?
Tai biến mạch máu não là tình trạng một phần não bị hư hại đột
ngột do mất máu nuôi do tắc hoặc vỡ mạch máu não. Khi thiếu máu lên não, các tế
bào não sẽ ngưng hoạt động và sẽ chết đi trong vài phút. Hậu quả là các vùng cơ
thể do phần não đó điều khiển sẽ ngưng hoạt động, dẫn tới yếu liệt, tê, mất cảm
giác nửa người, không nói được hoặc hôn mê, thậm chí là tử vong nếu không được
cấp cứu kịp thời. Nhiều trường hợp được cứu sống nhưng có thể bị tàn phế suốt
đời, giảm tuổi thọ và không còn khả năng lao động, khó hoà nhập cuộc sống bình
thường.
Tai biến mạch máu não xuất hiện do lòng động mạch máu nuôi não
bị tắc do mảng xơ mỡ đóng ở thành mạch dày lên dần, làm hẹp lòng mạch; Xuất
hiện cục máu đông di chuyển từ tim do tim bị bệnh loạn nhịp hoặc bệnh hẹp – hở
van tim khiến máu ứ lại, đóng thành cục máu đông trong tim, sau đó chảy lên não
làm kẹt lại gây tắc mạch máu não; Xuất huyết não (mạch máu bị vỡ làm chảy máu,
chèn ép não bộ) và xuất huyết khoang dưới nhện (mạch máu bị phình rồi vỡ ra làm
máu chảy vào khoang trống bao quanh não).
Người có nguy cơ tai biến mạch máu não cao là người trên
55 tuổi, người bị tăng huyết áp, đái tháo đường, vữa xơ động mạch, rối loạn
lipid máu, các bệnh mạch vành, van tim, loạn nhịp tim, hút thuốc lá, béo phì-
thừa cân, lười vận động và bị stress nặng hay thường xuyên.
Triệu chứng lâm sàng
Biểu hiện lâm sàng do tắc mạch hoặc do vỡ mạch khó có thể phân
biệt, để chẩn đoán nguyên nhân phải dựa vào các yếu tố tiền căn, bệnh có sẵn và
xét nghiệm cận lâm sàng (MRI, CT scan: là phương pháp dùng các đầu phát tia X
chạy xung quanh cơ thể bệnh nhân kết hợp với một máy tính sẽ thu được hình ảnh
các lớp cắt cơ thể khi xử lí qua máy tính).
Trong trường hợp điển hình, các triệu chứng xuất hiện đột ngột,
tiến triển chỉ trong vài giờ (hoặc vài ngày). Trên lý thuyết, các triệu chứng
thần kinh khu trú tương ứng với khu vực tưới máu của động mạch bị tổn thương, tuy
nhiên do các động mạch thông nối với nhau nên có sự cấp máu bù bởi các động
mạch còn nguyên, làm nhòe các triệu chứng.
Tổn thương trong bán cầu đại não (50 % các trường hợp) có thể
gây ra: liệt đối bên, khởi đầu là liệt mềm, dần dần diễn tiến đến liệt cứng;
giảm cảm giác đối bên; giảm thị lực cùng bên; nói khó.
Tổn thương thân não (25 %): triệu chứng đa dạng, có thể gây liệt
tứ chi, rối loạn thị giác, hội chứng khóa trong (tỉnh, hiểu nhưng do liệt,
không làm gì được).
Tổn thương khiếm khuyết (25 %): nhiều điểm nhồi máu nhỏ quanh
hạch nền, bao trong, đồi thị và cầu não. Người bệnh vẫn ý thức, các triệu chứng
có thể chỉ liên quan tới vận động hoặc cảm giác hoặc cả hai, có khi có triệu
chứng thất điều.
Phòng ngừa tai biến mạch máu não
Mặc dù tai biến mạch máu não là bệnh nguy hiểm song hoàn toàn có
thể giảm được nguy cơ bệnh nếu biết cách phòng ngừa, đó là:
Liệu pháp thay đổi lối sống (thực hiện chế độ ăn kiêng và hoạt
động thể lực) là biện pháp quan trọng làm giảm nguy cơ bị vữa xơ động mạch nói
chung và tai biến mạch máu não nói riêng. Liệu pháp thay đổi lối sống bao gồm:
Cai thuốc lá; có chế độ dinh dưỡng giàu vitamin, khoáng chất, hạn chế ăn quá
nhiều chất béo và các thực phẩm giàu calo, liệu pháp dinh dưỡng còn nhằm làm
giảm lượng lipid máu, giảm huyết áp và giảm đường máu nếu bệnh nhân bị đái tháo
đường; Tăng hoạt động thể lực sẽ làm cải thiện tình trạng tim mạch và làm cải
thiện các yếu tố nguy cơ tim mạch như rối loạn lipid máu, béo phì và tăng huyết
áp.
Phòng ngừa tình trạng đông máu bằng thuốc: Tình trạng tăng đông
có thể ảnh hưởng đến bệnh lý tim mạch. Điều trị bằng aspirin có lợi trong phòng
ngừa tiên phát và thứ phát cho các bệnh nhân bị nhồi máu não. Liều điều trị nên
lựa chọn là liều có hiệu quả cao nhất với tác dụng phụ ít nhất. Các bệnh nhân
có nguy cơ cao hay những người có kèm theo tăng huyết áp, rối loạn lipid máu
hoặc bệnh tim mạch (bệnh động mạch vành, đột
quỵ hay bệnh mạch máu ngoại biên) nên được điều trị bằng aspirin 75-100
mg/ngày. Nếu bệnh nhân bị dị ứng với aspirin, các thuốc ức chế ngưng tập tiểu
cầu khác như clopidogrel 75mg/ngày có thể được dùng thay thế ở các bệnh nhân có
nguy cơ cao.
Điều trị rối loạn lipid máu: Những người trên 45 tuổi cần được
kiểm tra lipid máu định kỳ, bao gồm cholesterol toàn phần, LDL-C, triglycerid
và HDL-C sau khi nhịn đói 10-12 giờ. Nên kiểm tra định kỳ lượng lipid máu 6-12
tháng/lần. Mục tiêu điều trị rối loạn lipid máu là LDL-C dưới 2,6 mmol/l
(100mg/dl), triglycerid dưới 2,3 mmol/l (200 mg/dl) và HDL-C bằng hoặc trên
1,0mmol/l (40mg/dl). Tuy nhiên, cần cân nhắc giữa lợi ích và giá thành, cũng
như các tác dụng phụ có thể gặp khi dùng thuốc liều cao. Điều trị bằng thuốc
phải kết hợp với liệu pháp thay đổi lối sống. Liều thuốc được tăng dần đến khi
đạt được nồng độ LDL-C mục tiêu.
Kiểm soát trị số huyết áp: Tăng huyết áp rất hay gặp ở người có
tuổi. Tăng huyết áp làm tăng nguy cơ bị các biến chứng tim mạch (đột quỵ, bệnh
động mạch vành và mạch máu ngoại biên). Mục tiêu điều trị nhằm đạt trị số huyết
áp dưới 140/90mmHg. Thay đổi lối sống và dùng thuốc được áp dụng cho các bệnh
nhân có huyết áp trên 140/90mmHg. Các nghiên cứu gần đây cho thấy việc quan
trọng nhất trong điều trị tăng huyết áp là đạt được trị số huyết áp mục tiêu.
Nguyên tắc sử dụng thuốc hạ áp là nên bắt đầu với một thuốc liều thấp hoặc phối
hợp các nhóm thuốc với liều thấp để vừa đạt được hiệu quả điều trị vừa làm giảm
tác dụng phụ.
Lưu ý: Trong mùa hè, thời tiết nắng nóng sẽ là yếu tố làm gia
tăng các ca tai biến mạch máu não, vì vậy những bệnh nhân đã từng bị tai biến
mạch máu não và những người có nguy cơ phải đặc biệt chú ý đến các biện pháp
phòng bệnh, tránh hoạt động quá sức và có chế độ ăn uống, lao động, nghỉ ngơi…
phù hợp với sức khỏe.
Theo Omron - yte
0 nhận xét:
Đăng nhận xét