Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm và sự quan tâm chăm sóc của mình
đối với đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam. Chặng đường sau 30
năm đi tìm đường cứu nước, mùa Xuân năm 1941, Bác về nước trực tiếp lãnh đạo
cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Thay mặt đồng bào cả nước,
bà con các dân tộc trên bản nhỏ của người Nùng ở Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà
Quảng, tỉnh Cao Bằng đón Bác về.
Bác Hồ
với đồng bào dân tộc thiểu số. Ảnh: Internet.
Đứng
trước những yêu cầu thực tiễn của cách mạng, tháng 12-1944, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và giao
cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Trong số 34 cán bộ, chiến sĩ của đội có
29 người là dân tộc thiểu số, còn lại 5 chiến sĩ người dân tộc Kinh. Đây là đơn
vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của Quân
đội nhân dân Việt Nam.
Ba tháng
sau ngày nước nhà độc lập, tại Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam,
ngày 3 tháng 12 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến sự thành công của
cách mạng Việt Nam, đó là: “Nhờ sức đoàn kết đấu tranh chung của tất cả các
dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình
đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh em trong một nhà, không còn có
sự phân chia nòi giống, tiếng nói nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập
phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng phải đoàn kết hơn nữa”.
Sau khi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi vào năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cùng Chính phủ, Trung ương Đảng từ Chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô sau
chín năm kháng chiến anh dũng và gian khổ. Ngày 19-12-1954, Bác chính thức về ở
tại Khu Di tích Phủ Chủ tịch ngày nay. Ngày 7-5-1955, nhân dịp kỷ niệm một năm
ngày giải phóng Điện Biên Phủ, Bác đã viết thư gửi đồng bào Khu tự trị Thái -
Mèo, trong thư có đoạn viết: “Từ một năm nay, vùng Tây - Bắc ta được hoàn
toàn giải phóng, đó là do các dân tộc đoàn kết chặt chẽ, hăng hái kháng chiến;
do bộ đội ta anh dũng đánh giặc; do Đảng và Chính phủ ta lãnh đạo sáng suốt”.
Chính phủ đã quyết định thành lập Khu tự trị Thái - Mèo với mục đích làm cho
các dân tộc anh em ở nơi đây dần dần tự quản lý lấy công việc của mình, mau
chóng phát triển kinh tế và văn hoá của mình, thực hiện các dân tộc bình đẳng
về mọi mặt.
Trong
thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc tại Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí
Minh tại Phủ Chủ tịch, Người cùng với các đồng chí lãnh đạo Nhà nước Việt Nam
đã tiếp đón, gặp mặt nhiều đại biểu các dân tộc thiểu số thuộc các đoàn thể,
các ngành, các giới từ khắp mọi miền Tổ quốc như: Tháng 8 năm 1958, Người đã
tiếp đoàn đại biểu các dân tộc thiểu số Liên khu 4 ra Thủ đô dự Lễ Quốc khánh
tại đây; Tháng 10 năm 1958, Người tiếp Đoàn đại biểu các dân tộc tỉnh Hải Ninh
và khu Hồng Quảng gồm tỉnh Quảng Yên và Khu Hồng Gai cũ (nay là Quảng Ninh)
nhân dịp Đoàn về thăm thủ đô. Nói chuyện thân mật với các đại biểu, Người căn
dặn mọi người phải tăng cường đoàn kết, hăng hái thi đua sản xuất, tiết kiệm,
cảnh giác với âm mưu chia rẽ phá hoại của bọn tay sai Mỹ - Diệm; Tháng 11 năm
1958, Người tiếp đoàn đại biểu các dân tộc khu Lao - Hà - Yên về thăm Thủ đô;
Tháng 5 năm 1959, Người gặp mặt thân mật Đoàn đại biểu các dân tộc Tây Bắc về
dự Lễ kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động ở Thủ đô, Người dặn dò các đại biểu cần
động viên bà con tăng gia sản xuất để đời sống ngày càng no ấm hơn. Muốn sản
xuất có kết quả, phải tổ chức tổ đổi công, nơi nào có tổ đổi công rồi thì phải
làm thật tốt để tiến dần lên hợp tác xã. Không những đón tiếp các đoàn đại biểu
dân tộc thiểu số đến thăm, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đến trực tiếp thăm hỏi đồng
bào dân tộc thiểu số như: Tháng 7 năm 1960, Người tới thăm và nói chuyện với
đại biểu các dân tộc ít người trong Quốc hội khoá II về chính sách đoàn kết dân
tộc của Chính phủ và nhiệm vụ của các đại biểu Quốc hội trong sự nghiệp cách
mạng; Tháng 2 năm 1961, Người đến thăm Trường Cán bộ dân tộc Trung ương. Người
khen ngợi anh chị em học viên đã đoàn kết tốt, học tập tốt và căn dặn mọi người
phải cố gắng đoàn kết, học tập tốt hơn nữa và chú ý vệ sinh phòng bệnh để có
sức khoẻ bảo đảm học tập.
Tại nơi
đây cũng đã chứng kiến sự trăn trở đêm ngày của Người nhằm đưa ra những quyết
sách khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh; xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm hậu phương vững chắc cho cách mạng cả nước;
đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
tiến tới thống nhất nước nhà, tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của các nước xã hội
chủ nghĩa và bạn bè quốc tế. Cùng với đường lối khôi phục và phát triển kinh
tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đẩy mạnh phát triển khối đại đoàn
kết các dân tộc để phục vụ những yêu cầu mới của cách mạng. Ngày 7
tháng 5 năm 1959, Người lên thăm đồng bào, cán bộ các dân tộc Tây Bắc nhân kỷ
niệm 5 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Nói chuyện với đồng bào và cán bộ tại
buổi mít tinh ở Thuận Châu (Sơn La), Người khen ngợi tinh thần đoàn kết kháng
chiến cũng như tinh thần đoàn kết sản xuất của tất cả đồng bào, bộ đội, cán bộ
trong toàn Khu Tây Bắc. Chủ tịch chúc:
“Người
người mạnh khỏe,
Đoàn kết
chặt chẽ,
Hăng hái
thi đua,
Thành
công vui vẻ.”
và trao
tặng lá cờ thêu dòng chữ ĐOÀN KẾT THI ĐUA THẮNG LỢI
Bên cạnh
đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đẩy mạnh phát triển văn hoá giáo
dục. Bởi theo Người: “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không
nói gì đến kinh tế và văn hoá”(4). Bác khen tỉnh Hoà
Bình, tỉnh miền núi đầu tiên xoá xong nạn mù chữ và đồng bào xã Bản Phố, Lào
Cai, xã dân tộc Mèo đầu tiên xoá xong nạn mù chữ. Ngày 17 tháng 1 năm 1961, Bác
gửi thư khen tỉnh Hòa Bình: “Tôi rất vui lòng thay mặt Trung ương Đảng và
Chính phủ gửi lời khen ngợi tỉnh nhà, là tỉnh miền núi đầu tiên đã xóa xong nạn
mù chữ. Trước đây dưới chế độ thực dân và phong kiến, ở Hòa Bình hơn 95% người
mù chữ, cả tỉnh chỉ có một trường tiểu học. Ngày nay dưới chế độ dân chủ tốt
đẹp của ta, 95% nhân dân biết đọc, biết viết, tất cả 194 xã đều có trường tiểu
học, trong tỉnh lại có nhiều trường cấp II, cấp III và trường sư phạm, đó là
một thắng lợi vẻ vang”(5).
Bác Hồ
về thăm lại đồng bào dân tộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Tháng 8
năm 1963, Người đến thăm Hội nghị Tuyên giáo miền núi. Nói chuyện với các đại
biểu, Người nêu rõ tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo dục đối với
miền núi và nhắc nhở các cán bộ tuyên truyền phải ghi nhớ: Công tác tuyên
truyền phải cụ thể, thiết thực. Cán bộ phải tự hỏi: Tuyên truyền cái gì? Tuyên
truyền cho ai? Tuyên truyền để làm gì? Tuyên truyền cách thế nào? Và phải xuất
phát từ nhiệt tình cách mạng, tình thương yêu chân thành đồng bào các dân tộc,
từ tinh thần hết lòng phục vụ đồng bào các dân tộc thì mới tìm ra được cái hay
cái đúng mà làm. Người đồng thời chỉ thị cho các ngành, các cấp ở Trung ương
đều phải nhận trách nhiệm và có kế hoạch giúp đỡ thiết thực đồng bào miền núi
về kinh tế cũng như về văn hoá, để miền núi nhanh chóng tiến kịp miền xuôi.
Tháng 12 năm 1963, Người tặng huy hiệu cho hai giáo viên miền núi là anh Trương
Văn Chín, 20 tuổi, dân tộc Nùng ở xã Thanh Long (Hà Quảng, Cao Bằng) đã tận tuỵ
dạy dỗ con em đồng bào dân tộc Dao và anh Lộc Văn Phưa, 38 tuổi, dân tộc Thái ở
xã Hiên Kiệt (Quan Hoá, Thanh Hoá), què cả hai chân vẫn tận tụy dạy bà con học
chữ; Tháng 3 năm 1964, Người thưởng huy hiệu cho một cán bộ mậu dịch người dân
tộc Mông ở Cao Bằng và một chiến sĩ thi đua diệt dốt cũng là người dân tộc Mông
ở Lào Cai; Tháng 9 năm 1964, Người thưởng huy hiệu cho hai công nhân Lâm trường
Mai Siu (Bắc Giang) vừa công tác vừa dạy các cháu thiếu nhi và đồng bào các dân
tộc thiểu số ở địa phương học chữ quốc ngữ; Người cũng đã gửi thư khen và gửi
phần thưởng cho 654 học sinh giỏi của 18 tỉnh miền Bắc trong năm học 1964-1965,
trong đó có 33 em người dân tộc thiểu số... Đây là nguồn cổ vũ, động viên lớn
lao và kịp thời của Người đối với nhân dân các dân tộc thiểu số.
Vào dịp
sinh nhật lần thứ 75 của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt bút viết những dòng
đầu tiên của bản Di chúc. Từ đó hàng năm, Người dành một thời gian nhất định từ
ngày 10 đến ngày 20 tháng 5, để sửa chữa, bổ sung hoàn chỉnh bản Di chúc. Người
đã sửa lần cuối cùng bản Di chúc lịch sử này vào tháng 5 năm 1969. Bản Di chúc
khẳng định niềm tin tuyệt đối của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thắng lợi của sự
nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước của dân tộc. Trong đó Người dặn dò toàn
Đảng, toàn dân phải không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Người viết: Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi,
đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột,
lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng
cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất
trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế
và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. ... Điều mong muốn
cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Ngày
nay, những lời dạy của Bác về bình đẳng dân tộc, về sự giúp đỡ lẫn nhau giữa
các dân tộc để đồng bào các dân tộc thiểu số có đời sống vật chất và tinh thần
ngày càng cao hơn đang được Đảng và Chính phủ tiếp tục phát huy. Sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ thể hiện qua các
nghị định, chương trình, dự án, mà còn bằng chiến lược cơ bản lâu dài,
như Chiến lược Công tác dân tộc đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt năm 2013, nhằm tạo động lực phát triển mạnh mẽ vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Tiếp đó, ngày 14-3-2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 402/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Phát triển đội ngũ, cán bộ, công chức, viên chức
người dân tộc thiểu số trong tình hình mới. Một trong những nhiệm vụ và giải
pháp trọng tâm được đặt ra là công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng
cao năng lực cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số dân tộc thiểu
số.
Ths Hồ
Thị Quỳnh Thoa
CÁC BÀI CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM
0 nhận xét:
Đăng nhận xét