Hạt Giống Tâm Hồn - Tập 2
Chương 1: Thông tin
Thông
tin ebook
Tác giả:
Nhiều Tác Giả
Tác
phẩm: Hạt Giống Tâm Hồn - Tập 2
Thể
loại: Kỹ năng sống, làm người
Tổng hợp
và biên dịch: First News
Chương 2: Sẽ đến lúc
Sẽ đến lúc bạn chợt nhận ra sự khác biệt tinh tế giữa việc giữ
một bàn tay và sự ràng buộc một tâm hồn.
Sẽ đến lúc bạn chợt nhận ra tình yêu không còn là điểm tựa và
bên nhau không có nghĩa bình yên.
Sẽ đến lúc bạn chợt nhận ra nụ hôn không phải là lời cam kết và
quà tặng khác với lời hứa thật lòng.
Sẽ đến lúc bạn chợt nhận ra không phải mùa nắng nào cũng đẹp.
Và bạn biết chấp nhận thất bại với tư thế ngẩng cao đầu và đôi
mắt sáng, với sự cao thượng của tuổi trưởng thành chứ không bi lụy, cố chấp của
trẻ thơ.
Có ai đi không vấp ngã một đôi lần.
Hãy góp nhặt những mảnh vỡ của mình và bước tiếp từ đây - trên
con đường đã chọn của ngày hôm nay và không trông chờ vào những gì chưa chắc
chắn của ngày mai.
Bạn hãy cho đi đừng tiếc nuối, níu kéo. Có ai cho đi mà cảm thấy
mất bao giờ.
Và hãy giữ lại những điều đẹp nhất, gieo hạt trồng hoa trên mảnh
đất tâm hồn, hơn mỏi mòn đợi chờ ai mang đến.
Và bạn nhận ra rằng mình đã vượt qua.
Cuộc Sống sẽ thêm phần ý nghĩa.
Tự do mơ về những điều sẽ đến.
Ngước mắt vượt qua khung cửa sổ - ngắm nhìn các vì sao.
Cảm nhận thật rằng bạn đang sốngẽ Bản lĩnh, mạnh mẽ và xứng
đáng.
Dù bất kỳ điều gì xảy ra!
Tất cả là bắt đầu, với tất cả những gì vốn có.
Chờ đón bạn phía trước.
Trong ánh mắt lấp lánh niềm tin.
Của ngày mới đang đến.
- Veronica A. Shoffstall
Chương 3: Bí mật hạnh phúc
"You never lose by loving. You always lose by holding
back"
(Bạn không bao giờ bị mất đi vì yêu thương. Bạn chỉ để mất đi
khi cố giữ lại)
- Barbara De Angelis
Ngày hôm nay tôi sẽ xóa khỏi sự quan tâm của mình hai ngày: đó
là ngày hôm qua và ngày mai.
Ngày hôm qua là kinh nghiệm để học hỏi còn ngày mai sẽ là kết
quả của những gì bắt nguồn từ ngày hôm nay.
Hôm nay tôi sẽ đón chào cuộc sống thật mới mẻ với niềm tin chắc
chắn rằng ngày này sẽ chẳng bao giờ quay trở lại.
Hôm nay là cơ hội thật sự để tôi sống hết lòng, vì mọi việc đều
có thể xảy ra và không ai có thể đảm bảo chắc chắn là tôi sẽ còn trông thấy ánh
bình minh của ngày mai.
Hôm nay tôi sẽ xóa đi những nỗi buồn của ngày hôm qua và đầu tư
nguồn vốn quỷ giá nhất của mình
- thời gian, vào công việc lớn nhất - cuộc sống.
Tôi sẽ tâm huyết dành từng phút một để biến ngày hôm nay thành
một ngày đặc biệt trong đời.
Hôm nay tôi sẽ thách thức mọi trở ngại trên đường đi với một
niềm tin là mình sẽ vượt qua.
Hôm nay tôi sẽ chế ngự sự bi quan và chinh phục thế giới với nụ
cười trên môi cùng niềm hứng khỏi đón chờ những gì tốt đẹp sẽ đến.
Hôm nay tôi sẽ thực hiện những công việc thường ngày của tôi một
trọn vẹn và vui vẻ nhất.
Hôm nay tôi sẽ đứng vững trên mặt đất, nhận thức rõ thực tại và
những ước mơ dự định của tương lai.
Hôm nay tôi sẽ dành thời gian để vui sống, chia sẻ và quan tâm
đến mọi người. Tôi sẽ giảng hòa với những người thường hay trách cứ và tha thứ
cho những người từng mang đến nỗi đau.
Hôm nay tôi sẽ để lại dấu ấn và sự hiện diện của mình trong trái
tim mọi người.
Hôm nay tôi xin mời bạn chúng ta cùng bắt đầu một mùa mới với
những ngày nắng đẹp, thời điểm mà chúng ta có thể thực hiện được những ước mơ
tuổi thơ và làm những gì chúng ta có thể làm được. Và chắc chắn chúng ta sẽ đạt
được ước mơ của mình trong niềm vui thực sự.
***
Vâng, trước đây tôi thường suy nghĩ về những gì của ngày hôm qua
và lo lắng quá nhiều về ngày mai mà không thực sự sống trọn vẹn cho ngày hôm
nay. Tôi đã không nhận ra được rằng với ngày hôm nay tôi có thể làm thay đổi
tất cả. Bí quyết thật giản dị. Tất cả là do suy nghĩ và cách nhìn của mình. Mọi
người nói với tôi là tôi đang hạnh phúc, và tôi cũng cảm nhận như vậy. Tôi kể
lại bí quyết của mình vì tôi rất mong mọi người đều được hạnh phúc.
- Dịch từ Internet
Chương 4: Bạn để lại gì cho cuộc sống?
Tương lai hoàn toàn nằm trong tay bạn. Do vậy, tốt hơn là bạn
nên khiến nó hoàn thiện hơn.
- Jơiie Foster
Giáo sư dạy môn triết của tôi rất lập dị. Chiếc áo khoác len dày
đã sòn cùng cặp kính dầy cộm xệ xuống tận chóp mũi, che gần hết khuôn mặt, càng
làm nổi bật vẻ bề ngoài bê bối của thầy.
Thỉnh thoảng thầy hay khai mào cuộc thảo luận về các đề tài
chẳng mấy ai quan tâm, đại khái như "Ý nghĩa cuộc sống là gì?". Phần
lớn những cuộc thảo luận đó không đi đến kết luận rõ ràng, nhưng cũng có khi
chúng gây tác động mạnh. Chẳng hạn như câu chuyện tôi sắp kể ra đây.
- Em nào trả lời câu hỏi của thầy thì giơ tay lên - thầy nói với
cả lớp - Ai có thể kể về cha mẹ mình?
Mọi người đều giơ tay.
- Ai có thể kể về ông bà mình? - Khoảng ba phần tư lớp giơ tay.
- Vậy em nào có thể kể về ông bà cố của mình? - Chỉ hai trong số
60 sinh viên giơ tay.
- Giờ thì các em hãy suy nghĩ kỹ đi nào - thầy bảo - Chỉ mới
cách có hai thế hệ mà rất ít người biết cụ cố mình là ai. Có thể các em từng
thấy một bức ảnh cũ kỹ phai màu được cất kỹ trong hộp thuốc lá mốc meo, hay đã
nghe kể một câu chuyện tiêu biểu về gia tộc mình, và biết có người trong tổ
tiên mình đã lội bộ năm dặm đường để đến trường. Nhưng mấy người trong các em
thật sự biết tổ tiên của mình là ai, các cụ nghĩ gì, hãnh diện, lo sợ hay mơ
ước điều gì. Các em thử nghĩ xem. Chỉ trong vòng ba thế hệ thôi mà các bậc tiền
nhân đều đã bị lãng quên. Vậy, liệu điều đó có xảy đến với các em sau này
không?
Để thầy nêu câu hỏi cụ thể hơn cho các em. Các em thử tưởng
tượng ra ba thế hệ sau mình. Lúc ấy các em đã ra người thiên cổ lâu rồi. Chỗ
các em ngồi bây giờ sẽ là chỗ của các chít chắt. Liệu chúng có biết gì về các
em không? Hay là các em cũng sẽ chìm sâu trong dĩ vãng?
Các em muốn cuộc sống của mình hiện thời sẽ là dấu hiệu báo điềm
xấu hay là tấm gương soi sáng cho các thế hệ sau? Các em sẽ để lại di sản nào?
Sự lựa chọn hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của các em. Thôi bây giờ lớp
chúng ta nghỉ.
Nhưng không ai trong lớp chúng tôi đứng ngay dậy và ùa về như
mọi khi. Mọi người đều ngồi lại và suy nghĩ về lời thầy nói.
Chương 5: Nhận biết chính mình
Một trong những điều khích lệ nhất mà bạn có thể làm là tự xác
định chính mình - biết mình là ai, mình tin vào cái gì và mình muốn đi tới đâu.
- Shiela Murray Bethel
Với Sparky, trường học là tất cả, chỉ có điều cậu không thể theo
được. Cậu đã thi hỏng mọi môn học vào năm học lớp tám. Cậu trượt môn vật lý hồi
học trung học, thi hỏng môn tiếng La tinh, đại số và tiếng Anh. Ớ các môn thể
thao cậu cũng chẳng khá gì hơn. Mặc dù đã cố gắng tham gia vào đội đánh gôn của
trường, nhưng cậu nhanh chóng thua trận đấu quan trọng duy nhất trong mùa thi
đấu. Chỉ có mỗi một trận đấu an ủi, cậu cũng để thua nốt.
Suốt thời tuổi trẻ của mình Sparky rất vụng về. Thực ra cậu
không bị những học sinh khác ghét bỏ; không ai quan tâm nhiều đến thiếu sót của
cậu. Cậu ngạc nhiên khi một người bạn cùng lớp cất tiếng chào cậu ngoài giờ
học. Cậu cũng chẳng hẹn hò với một bạn gái nào. Sparky rất sợ bị chối từ.
Sparky là một người thất bại. Cậu, các bạn học của cậu, mọi
người đều biết điều đó. Thế là cậu mặc nhiên
chấp nhận nó. Sparky quyết định từ sớm rằng nếu mọi việc có
chiều hương khá hơn, chúng sẽ tự nhiên đến. Nếu không thì cậu sẽ tự bằng lòng
với những gì dường như là tầm thường vốn đã quen thuộc của cậu.
Tuy nhiên, có một điều quan trọng với Sparky - đó là hội họa.
Cậu rất tự hào về khả năng vẽ của mình. Dĩ nhiên là không ai khác thấy được
điều ấy. Vào năm cuối cấp trung học, cậu đã gửi một số tranh biếm họa cho một
số tạp chí nhưng bị từ chối. Mặc dù vậy, Sparky vẫn rất tự tin với tài năng của
mình đến nỗi cậu quyết định sẽ trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp.
Sau khi tốt nghiệp trung học, cậu viết một lá thư gửi đến hãng
phim Walt Disney. Người ta yêu cầu cậu gửi một vài tranh mẫu theo chủ đề đã gợi
ý. Sparky đã dành rất nhiều thời gian cho chúng cùng tất cả những bức vẽ khác
mà cậu nộp theo. Cuối cùng, hãng phim Disney cũng hồi âm. Một lần nữa cậu lại
bị từ chối. Một thất bại nữa đối với con người thất bại này.
Thế là Sparky quyết định viết tiểu sử của chính mình trong những
bức tranh. Cậu đã mô tả lại tuổi thơ của mình - một cậu bé luôn luôn thất bại.
Chẳng bao lâu sau nhân vật của câu truyện tranh ấy đã trở nên nổi tiếng khắp
thế giới. Sparky, cậu bé thiếu thành công tại trường và tác phẩm luôn bị từ
chối hết lần này đến lần khác chính là Charles Schultz, người sáng tạo ra
'Peanuts', một trong những truyện tranh hài hước nổi tiếng nhất trong lịch sử.
Chương 6: Món quà của tình yêu
Chưa hề có ai, kể cả thi sĩ có thể đo lường được sức chứa của
trái tim.
- Zelda Fitzgerald
Cho tôi xem cháu một chút được không? - Người mẹ trẻ hạnh phúc
hỏi.
Khi cái gói nhỏ xinh xắn nằm gọn trong tay mình, người mẹ vén
miếng vải để xem khuôn mặt bé xíu kia ra sao, bỗng cô há hốc vì kinh ngạc.
Người bác sĩ vội quay đi và nhìn ra cửa sổ. Đứa bé con cô không có đôi tai.
Thời gian trôi qua, đứa bé ấy lớn lên và vẫn có khả năng nghe
bình thường, chỉ có điều cơ thể cậu có một thiếu sót...
Rồi một hôm, đứa bé chạy vội từ trường về nhà, gục đầu vào lòng
mẹ mình khóc nức nở. Trông cậu thảm thương làm sao! Và cậu tự thốt ra bi kịch
của mình:
- Con là... một con quái vật!
Người mẹ hiểu rằng cuộc đời con trai mình bắt đầu phải trải qua
nhiều lần cay đắng như thế.
Cậu bé lớn lên càng lúc càng tuấn tú và khỏe mạnh,
như thể tạo hóa muốn bù lại nỗi bất hạnh của cậu. Bao bạn bè quý
mến cậu. Đáng lẽ cậu được chọn làm lớp trưởng nếu như cậu không bị khiếm khuyết
hình thể duy nhất ấy. Cậu lại rất giỏi văn chương và âm nhạc, đáng lẽ cậu có
thể tiến xa, nếu như...
- Nhưng con vẫn có thể hòa nhập với người khác được mà - Người
mẹ trách nhẹ khi thấy cậu buồn tủi, nhưng tim bà cũng đau xót chẳng khác gì
cậu. Bà thương con biết bao!
- Chẳng lẽ không có cách nào khác để giúp con tôi sao? Người cha
hỏi vị bác sĩ của gia đình.
- Tôi tin rằng tôi có thể phẫu thuật ghép vành tai nếu như có
người hiến tặng - ông ta đáp.
Thế rồi gia đình cậu bắt đầu tìm kiếm người có thể hy sinh cho
cậu đôi tai. Riêng chàng trai trong lòng khấp khỏi hy vọng.
Đã hai năm trôi qua mà không có kết quả gì. Cho đến một hôm, cha
cậu bảo:
- Con chuẩn bị đến bệnh viện làm phẫu thuật. Bố mẹ đã tìm được
người hiến tai cho con rồi. Nhưng người ta bắt phải giữ bí mật.
Cuộc phẫu thuật thành công rất tốt đẹp, và cuộc đời cậu thay đổi
từ đó. Cậu như có thêm sức mạnh và lòng tự tin. Tài năng của cậu đạt đến đỉnh
cao, vinh quang của cậu nối tiếp từ trường phổ thông đến khi cậu học đại học.
Sau đó, cậu lập gia đình và bước vào lĩnh vực ngoại giao.
- Con cần phải biết chứ! Cậu thúc ép cha, con cần biết ai đã cho
con quá nhiều như thế? Nếu không, con sẽ không thể đền đáp đủ công ơn cho người
ta.
- Cha không nghĩ rằng con có thể đền đáp được cho người đó
đâu... nhưng con vẫn chưa được biết, con ạ.
Nhiều năm nữa lại trôi qua, bí mật sâu kín đó vẫn chưa hề hé mở.
Rồi cái ngày người con trai mong mỏi cũng đến. Đó là một trong
những ngày tối tăm nhất trong cuộc đời cậu. Đứng cạnh cha bên quan tài mẹ, cậu
thấy ông nhẹ nhàng đưa tay ra từ từ, nâng mái tóc nâu đỏ dày của bà lên: bà đã
không còn đôi tai.
- Mẹ con nói rằng bà rất vui nếu để tóc dài - người cha thì thầm
- mẹ con để như vậy cũng đâu có xấu đi chút nào, đúng không con?
Người cha đã nói đúng, vẻ đẹp thật sự của con người không nằm ở
bề ngoài mà là ngay trong chính trái tim của họ. Điều thật sự đáng giá không
phải ở những gì ta có thể nhìn thấy mà là ở những điều vô hình. Tình yêu thật
sự không nằm trong những gì được thể hiện và được biết đến, mà chính ở những
điều làm được mà không ai biết đến.
Chương 7: Chấp nhận mạo hiểm
Con tàu rất an toàn khi neo đậu ở cảng, nhưng người ta đóng tàu
không phải vì mục đích đó.
- Grace Hopper
Tránh qua đi nào, chậm như rùa! - Jack la lên, đấm tay lên cái
kèn - Xê cái đống sắt vụn ra khỏi đường đi! - Anh giật mạnh tay lái sang trái
và vượt qua chiếc xe hơi chạy chậm hơn, bấm còi inh ỏi khi vượt qua nó. Hai
chiếc xe đang ở rất sát nhau.
Đột nhiên, trong kính chiếu hậu xe anh hiện lên những ánh đèn
xanh lập lòe. Đó là một chiếc xe cảnh sát không hú còi!
- Ôi, tuyệt! - Jack gầm lên - Sao tối nay mình lại xui xẻo thế
không biết!
Anh hãm dần tốc độ lại rồi dừng xe dưới cột đèn đường, lo lắng
nhìn vào kính. Một viên cảnh sát tuần tra to béo mở cửa xe bước ra. Thời gian
dường như vô tận; viên cảnh sát đứng bên chiếc xe hơi của mình, đội mũ lên cái
đầu tóc cắt ngắn ngủn rồi chỉnh lại thắt lưng và bao súng ngắn.
Cử chỉ chậm chạp của ông ta khiến Jack sốt ruột. Cuối cùng người
đàn ông béo phệ ấy cũng bắt đầu cất bước từ từ. Jack ngồi bất động tại chỗ đến
khi một luồng ánh sáng chói mắt chiếu vào đùi rồi lên mặt anh. Một tiếng gõ
mạnh trên cửa kính xe hơi thúc anh nhấn nút trên hộp điều khiển; kính xe từ từ
hạ xuống.
- Chào anh, anh có biết tại sao tôi giữ anh lại không?
- Dạ biết, thưa cảnh sát. Tôi đang vượt nhanh, và tôi có phần
không chú ý đến phía sau, nhưng tôi có chuyện gấp ạ.
- Tôi biết thế. Anh có thể cho tôi xem bằng lái và số đăng ký
của anh không?
Trong khi Jack lục lọi cái bóp của mình, viên cảnh sát tiếp:
- Anh biết là anh đã đi 58 dặm!g trong một khu vực chỉ cho phép
chạy 45 dặm/g chứ? Jack ngước lên:
- Ôi, Chúa ơi. Tôi không biết là mình đã lái quá nhanh như thế.
Anh biết không, tôi đã lái hơn 7 giờ để đến đây. Chị tôi gọi đến sở làm và bảo
tôi phải về nhà. Mọi người không nghĩ rằng mẹ tôi sẽ qua khỏi đêm nay; bà ấy bị
ung thư và sức khỏe rất kém trong 6 tháng qua.
Rồi anh cất giọng nài nỉ:
- Xin lỗi tôi đã chạy hơi nhanh, tôi cố gắng về nhà trước khi
quá muộn.
Viên cảnh sát ghi chép gì đó vào hồ sơ một lúc, sau đó xé mảnh
giấy trên cùng và đưa nó cùng tấm bằng lái lại cho Jack.
- Tôi lấy làm tiếc là mẹ anh không khỏe, Jack ạ, nhưng anh lái
xe quá tốc độ. Tôi đã xem xét và đặt mình vào trường hợp của anh, tôi quyết
định lần này chỉ cảnh cáo anh thôi.
- Cám ơn, ngài sĩ quan! Cám ơn! Tôi thật sự cảm kích tấm lòng
của ngài!
- Không có gì. Giờ thì lái an toàn một chút, lúc này mà gia đình
anh phải vào phòng cấp cứu với anh thì thật là tội cho họ đấy, anh bạn ạ!
- Ngài nói đúng, cám ơn ngài lần nữa! Tôi sẽ cẩn thận hơn.
- Hy vọng thế. Chúc một buổi tối tốt lành!
15 phút sau, Jack lăn bánh vào con đường đầy ắp những kỷ niệm
thời thơ ấu của mình. Anh bước vào nhà, ngôi nhà cũ thân yêu hoàn toàn yên lặng
ngoại trừ tiếng tích tắc nhỏ phát ra từ chiếc đồng hồ của ông ngoại và những
tiếng ồn tương tự từ các tấm ván dưới chân anh. Chị anh, Suzie, đang ở trong
bếp làm bánh sandwich.
- Jack! Em đã về - Cô thốt lên và ôm lấy anh - Chị lo là em phải
chạy quá xa! Em đi đường thế nào?
- Ôn cả chị ạ. Bob đã về chưa?
- Nó đã về được vài giờ rồi. Nó mới đi ngủ một lúc thôi.
Thấy Jack nhìn chiếc bàn chất đầy bánh ngọt, bánh nướng, gà
nướng và những đĩa thịt nguội trên bếp Suzie hỏi:
- Em có đói không? Đe chị dọn cho em một dĩa nhé? Mấy cô từ nhà
thờ của mẹ đã mang những thức ăn này đến đấy! Trong tủ lạnh còn có giăm bông
nữa.
- Không, cảm ơn chị, em muốn gặp mẹ. Mẹ thế nào rồi chị?
- Mẹ suy sụp nhanh từ hôm qua, nhưng mẹ không yếu như khi chị
gọi cho em trước đó.
- Thế thì tốt rồi! Lát nữa em sẽ gặp chị sau.
Jack quay đi và bước nhanh qua phòng khách, ra hành lang để rồi
sang phòng ngủ của mẹ anh. Dừng lại bên ngoài cửa phòng, anh nhẹ nhàng gọi:
- Mẹ ơi! Sau đó, Jack đẩy cửa bước vào - Con, Jack, đây mẹ.
Jack đã không ngờ đến những gì anh thấy kế đó. Căn phòng ngủ của
mẹ trông vẫn như xưa, ngoại trừ một điều: ngay giữa giường, trong một quầng
sáng vàng nhạt là thân hình tiều tụy yếu ớt của mẹ anh.
- Mẹ! Jack kêu lên, chạy đến bên bà. Tim anh như đông cứng trong
lồng ngực đến khi mẹ anh cựa mình, quay đầu lại nhìn anh.
- Con về thăm mẹ đây, mẹ.
Mẹ Jack từ từ mở đôi mắt xanh mệt mỏi rồi mỉm cười với anh.
- Jackie! Bà nói yếu ớt, đặt một bàn tay lên má anh - con đây
rồi!
- Vâng, con đây! Jack cười tươi dù những giọt nước mắt chỉ chực
trào trong mắt anh - Con đây mẹ!
- Mẹ đang đợi con, mẹ biết thế nào con cũng về mà!
- Vâng, mẹ, con đã tức tốc quay về. Con phải ở bên mẹ chứ.
- Cám ơn con, Jackie - bà nói và vỗ nhẹ tay lên má anh. Dạo này
con ra sao rồi?
- Con ổn cả.... mẹ đừng lo lắng gì cho con hết. Con đến đây để
xem mẹ thế nào!
- Con biết mẹ sao mà, Jackie. Mẹ sắp chết rồi. Mẹ muốn biết là
con ra sao kia. Nhà hàng đó làm ăn có kham khá không?
Jack buông một tiếng thở dài.
- Cũng như trước thôi mẹ à. Nancy bảo con có thể sang đó làm nếu
con muốn, nhưng cô ấy dường như không thật sự muốn con nghỉ làm ở Trung tâm bất
động sản đâu mẹ. Cô ấy bảo con nên hài lòng với những gì con đang làm.
- Nhưng con thấy thế nào?
- Thật sự là điều đó phần nào làm con lo ngại. Công việc của con
ở Trung tâm bất động sản này khá tốt; con đã làm ở đây hơn 16 năm và kiếm khá
nhiều tiền. Chúng con đã có những gì chúng con cần.... và hầu hết những gì
chúng con muốn...
Bà nhìn thẳng vào mắt anh:
- Thế có chuyện gì? Đôi mắt đã già và mệt mỏi của bà vẫn sắc bén
đủ để thấy rằng còn điều gì đó trong
đầu anh ngoài những gì anh đang nói.
Anh dịch người một cách thiếu thoải mái bên mép giường.
- Nhưng... điều đó không đủ. Con không còn hài lòng với những gì
con đang làm nữa. Tiền bạc thì không có gì phải bàn, nhưng công việc không còn
làm hài lòng con nữa. Mẹ có hiểu ý con không?
- Có - bà thì thầm, nhắm mắt và gật đầu đồng tình; bà hiểu anh
muốn nói gì. Bà đặt bàn tay mình lên tay con rồi siết nhẹ trong khi anh tiếp:
- Hồi mới bắt đầu công việc ở Trung tâm bất động sản, con thích
lắm! Con thật sự thích tiếp xúc với mọi người và giúp họ tìm đúng ngôi nhà họ
muốn. Con đã từng yêu thích ánh mắt của những đôi vợ chồng trẻ khi trao cho họ
chìa khóa căn nhà mới của họ. Thật là cảm động!
- Thế điều gì đã xảy ra với sự cảm động đó? - Mẹ anh thì thầm
hỏi, mắt vẫn nhắm lại nghỉ ngơi.
- Không có điều gì thay đổi cả. Mọi thứ vẫn vậy nhiều năm qua,
cuộc sống của con đã trở thành lề thói. Công việc làm ăn của con thì tốt, càng
ngày con càng bán được nhiều nhà. Sau một thời gian những cảm xúc hào hứng đó
dường như không còn tác động như xưa nữa.
Anh ngồi đó một lúc, miên man suy nghĩ. Điều gì đã xảy ra với
những ngày xưa tươi đẹp đó? Từ từ, anh quay về thực tại và nhận thấy mẹ đang
ngáy nhẹ. Anh
Ôm bà một lát, lấy làm lạ rằng thật ấm áp làm sao!
Anh nhẹ nhàng đứng lên, đặt nhẹ tay mẹ lên giường rồi ngồi vào
chiếc ghế cạnh giường. Nửa giờ sau, bao nhiêu suy nghĩ cứ tự do tuôn chảy qua
tâm trí anh trong khi anh nhìn mẹ đang ngủ, hơi thở đều đặn.
Tất cả những năm tháng tốt đẹp xưa đâu rồi? Những giấc mơ của
anh đâu cả rồi? Anh có thể làm gì để mang chúng quay trở về?
- Thế con định thế nào? - Mẹ anh hỏi như thể cuộc chuyện trò
giữa hai người chẳng hề bị gián đoạn. Jack giật mình ngước lên.
- À, Giovani, chủ nhà hàng Fratelli vẫn muốn con cân nhắc việc
đến chỗ ông ấy học việc. Con đã gặp ông ta vài tuần trước tại nhà hàng và ông
ta hỏi con có còn xem xét lời đề nghị của ông ta không.
- Thế con có xem xét không? Bà hỏi một cách yếu ớt, gần như đang
mơ.
- Con thật sự thích học làm đầu bếp - Jack vừa nói vừa chuyển
sang ngồi tại mép giường cạnh mẹ - Mẹ biết con luôn thích nấu nướng mà, con
cũng có khả năng đầu tư vào nhà hàng, nhưng con hay cảm thấy đó chỉ là một giấc
mơ ngớ ngẩn và ích kỷ.
Bà đưa tay ra tìm bàn tay con trai, sau đó bà nắm những ngón tay
ấy và giữ chặt chúng.
- Jack, mong muốn hạnh phúc không có gì là ích kỷ cả. Nếu Nancy
không phản đối thì còn gì ngăn cản con đâu?
- Nhiều thứ lắm, mẹ ạ! Con thích nấu ăn, nhưng sẽ ra sao nếu con
không thích hợp làm đầu bếp? Mẹ có nhớ món bánh nướng Hoàng Gia mà con đã làm
trong ngày họp mặt gia đình mình vài năm trước không? Bữa làm món đó con rất
vui. Có lần Giovani gọi con vào bếp và chỉ cho con cách nấu món Sò Hoàng Hậu.
Lần ấy con hết sức kinh ngạc! Ông ấy là đầu bếp bậc thầy. Nhưng có một sở
thích, hay thậm chí là có tài nấu nướng thì khác với việc làm một đầu bếp
chuyên nghiệp. Nếu con không có được những điều con mong muốn thì sẽ ra sao?
- Con sẽ không bao giờ biết nếu con không thử Jack ạ!
- Nhưng mẹ à, con không thể đánh cược tương lai với một ý thích
tức thời, mẹ biết đấy, việc rút lui không dễ dàng chút nào cả. Chuyện đó mạo
hiểm thật sự! Con không biết tí gì về việc kinh doanh nhà hàng. Con nghĩ rằng
đó là điều Nancy quan tâm nhất; con không thích dấn thân vào chuyện gì mà có
thể gây hại cho chúng con.
- Nghe này con trai, bà nghiêm giọng nhưng vẫn nhẹ nhàng. Một
nhà thơ có lần đã nói rằng: "Trong tất cả những lời tồi tệ phát ra từ lưõi
hay ngời bút, những lời đáng trách nhất là 'Hẳn có lẽ đã"'. Nếu bây giờ
con không chấp nhận rủi ro nào đó thì sau này, con sẽ phải sống trong hối tiếc
đấy!
- Con hiểu. Mẹ nói đúng mẹ ạ. Mẹ biết không, Giovani nói ông ấy
sẽ dạy con mọi thứ ông ấy biết, ông ấy đã làm công việc này gần 40 năm rồi! Nếu
mọi việc tốt đẹp, nó thật sự có thể tốt cho cả con và Nancy. Khi Giovani nghỉ
hưu, ông ấy sẽ cho con cơ hội mua lại sản nghiệp của ông. Con chỉ không biết
phải làm gì; đó là một canh bạc! Con nên làm gì đây mẹ?
Im lặng. Mải chìm đắm trong suy nghĩ của mình, một lúc sau Jack
mới lưu ý rằng căn phòng đã trở nên yên lặng. Anh mỉm cười, khuôn mặt mẹ anh
đang nghỉ ngơi mới yên bình làm sao. Anh đặt nhẹ tay lên tay bà và nắm lấy nó.
Có điều gì đó dấy lên trong anh. Anh nhìn mẹ kỹ hơn, siết chặt tay bà.
- Mẹ! Mẹ! Căn phòng càng im lặng hơn.
Jack nâng tay mẹ lên và dịu dàng hôn lên những ngón tay bà. Thật
ngạc nhiên, nó vẫn ấm làm sao. Một giọt nước vỡ trong mắt anh. Nhẹ nhàng đứng
dậy khỏi giường, anh đặt tay mẹ lên lòng bà rồi ngập ngừng đi ra khỏi phòng,
vừa đi vừa gọi anh chị mình.
Rạng sáng hôm đó, sau khi các y tá và nhân viên khám nghiệm tử
thi cùng những nhân viên ở nhà tang lễ đã đi hết, Jack ngồi một mình trước hiên
nhà. Bầu trời hương đông đang chuyển sang màu xám và từng ngôi sao đang biến
dần, Jack ngồi nhớ lại những điều sau cùng mẹ anh đã nói. Quay về hướng Tây,
anh nói với bầu trời trong xanh:
- Con nghe những gì mẹ đã nói, mẹ ạ! Con sẽ không sống một cuộc
sống hối tiếc! Con sẽ mạo hiểm! Con sẽ làm như thế!
Chương 8: Bữa điểm tâm bằng hồ dán
Tôi còn nhớ đó là một buổi sáng tháng chạp lành lạnh, tôi dậy
thật sớm, lúc mặt trời vừa ửng lên, khoác áo ấm, giày vở đủ bộ rồi leo hàng rào
sang nhà Minh mập. Tôi có hẹn sẽ theo ba nó đi chặt mai. Ba mẹ Minh kiếm sống
bằng cách trồng đủ thứ trong khu vườn nhỏ sau nhà: dưa leo, cũ kiệu, hành ngò,
hoa hồng, hoa cúc và mang ra chợ bán. Có khi lỗ, có khi lời. Nhưng chặt mai mới
là nghề "cha truyền con nối" từ thời ông cố nó. Mỗi năm chỉ được một
lần, nhưng nhờ đó mà tới chiều 30 mới kiếm được tiền ăn Tết.
Năm nay, ba Minh bảo sẽ cho nó đi theo để "nối nghề".
Vì Tết nào, ba tôi cũng mua giúp cho nhà Minh mập cành mai to nhất, đẹp nhất và
đắt tiền nhất nên tôi phải hứa với Minh là chỉ đi theo cho biết thôi, không
được chặt cành nào vì như thế ba mẹ nó sẽ mất mối.
Khi tôi thò đầu qua cửa sổ thì thấy ngay Minh mập và đám em út
lau chau đang ngồi quây quần bên chiếc bàn gỗ thấp, đứa nào cũng áo trắng, quần
soọc xanh, cũ kỹ nhưng thẳng thơm, tinh tươm. Cả bọn chụm đầu quanh một chiếc
nồi gang to, đen bóng vì ám khói, bên trong chứa đầy hồ dán. Tôi biết rõ nó là
hồ dán. Thời đó, chưa có những lọ "keo dán" công nghiệp xinh xinh như
bây giờ, mỗi khi tôi có môn thủ công ở trường, ba tôi vẫn lấy bột mì trong kho
ra, cho vào xoong nước, bắc lên bếp rồi khuấy đều tay cho tới lúc chất lỏng
trắng đục như sữa kia biến thành một thứ bột sền sệt, dẻo quánh và trong veo.
- Đây là hồ dán- ba tôi tuyên bố.
Vậy mà bây giờ, anh em nhà Minh mập xúm vào nồi, mỗi đứa một
chiếc muỗng, hăm hở múc hồ dán chấm vào nước mắm cho vào miệng ăn ngon lành.
Nhìn thấy tôi, Minh mập vui ra mặt:
- Ăn sáng không mày?
Tôi nhìn đám em nó mặt mũi dính tèm lem thứ chất dẻo trong veo,
buột miệng:
- Hồ dán làm sao ăn được, ghê thấy mồ!
Minh mập lừ mắt:
- Không ăn thì thôi, đồ làm phách!
May mà nó không giận đến nỗi đuổi tôi về nhà, nhưng suốt buổi
chặt mai hôm đó, Minh mập đâm ra lầm lì, chẳng thèm nói với tôi câu nào. Tôi
cũng chẳng để ý gì đến những cành mai xem chúng nhiều hoa hay nhiều nụ, dáng
đẹp hay không đẹp, vì mải nghĩ đến món hồ dán. Thứ bột mì đó, tôi chỉ mới thấy
bà ngoại trộn với rau bằm để cho heo ăn mà thôi.
***
Chuyện tôi phát ngôn một câu xanh dờn ở nhà Minh mập, không hiểu
sao ba mẹ tôi lại biết. Sáng hôm sau thức dậy, tôi thấy mẹ đặt lên bàn ăn một
nồi hồ dán còn bốc khói. Ba xoa xoa hai tay, tỉnh rụi:
- Lạnh quá, lạnh quá! Ăn sáng thôi!
Đó là lần đầu tiên trong đời tôi ăn "hồ dán", thứ bột
mì pha với nước rồi khuấy lên một cách giản đơn. Ba quấn quanh chiếc đũa, chấm
với nước mắm ớt, vừa ăn vừa hít hà. Mẹ múc vào chén, chan nước mắm, vừa ăn vừa
cười tủm tim. Còn tôi, sau vài phút ngỡ ngàng cũng nếm thử vì tò mò. Và tôi nhớ
mãi vị nhạt thếch của nó.
Buổi sáng hôm ấy, ba nói với tôi rằng không nên phần biệt, coi
thường người này hay người khác chỉ vì ở họ có những điều xa lạ với lối sống
của mình. Những món ăn ngon tôi vẫn ăn và món ăn nghèo nàn, đơn giản của gia
đình Minh mập đều kết tinh từ mồ hôi của con người. Ba nói với tôi rằng người
ta có thể làm ra bao nhiêu thức ăn ngon từ thứ bột mì tầm thường đó. Rằng trên
đời này không có gì là xa lạ với cuộc sống của con người. Rằng nếu ta nhìn mọi
người với đôi mắt và tâm hồn mở rộng, ta sẽ không bao giờ phải nói những lời khiến
người khác bị tổn thương.
Từ buổi sáng hôm ấy, tôi lớn lên mà không xa lạ với bất cứ cách
sống nào. Tôi đi từ miền sông nước đến cao nguyên, bước chân vào bất cứ
"thế giới mới" nào mà không hề chùn chân e ngại. Tôi có thể sẵn lòng
đi tình nguyện ở những vùng quê xa hẻo lánh, nghèo đói và khó khăn. Tôi có thể
ngủ ngon trên đống rơm cạnh chuồng bò, nghe mùi phần bò xộc vào mũi. Từ bữa
điểm tâm bằng hồ dán, tôi đã ăn những món ăn kỳ lạ nhất trên đời.
Minh mập bây giờ là một ông chủ miệt vườn trẻ chuyên trồng hoa,
vẫn đi chặt mai mỗi mùa Tet đến và thỉnh thoảng, vẫn khuấy một nồi hồ dán để
ăn. Nó viết thư nói với tôi rằng: "Mình đã lớn lên từ những bữa ăn hồ dán
đó". Tôi đưa thư Minh cho ba xem và nói:
- Cả con cũng vậy.
- Đông Vy
Chương 9: Những chiếc hộp
Một lần, tôi tình cờ phát hiện chiếc hộp sắt tây khóa kín để
trên nóc tủ. Ba tôi nói, nó đựng di chúc của ông nội. Trong đó viết rõ ông để
lại cho tôi cái gì khi ông về với đất.
Khi ông mất đi, ba tôi mở hộp ra và đọc cho mọi người nghe tờ di
chúc, thứ duy nhất ông để lại là những khoảnh đất, chia đều cho tất cả mọi
người, đất trồng cây ăn trái, đất trồng khoai sắn và đất trồng lúa... Ông để
lại cho tôi tủ sách và một rẻo đất nhỏ hình tam giác, nằm cạnh những mảnh ruộng
mà ông đã làm lụng suốt đời trên đó. Một mảnh đất đủ để tôi trồng những cây cà
chua và những luống rau muống, ông viết vậy, với tất cả tình thương yêu.
Tôi đứng trước rẻo đất ấy, khóc rất nhiều, và nhận ra cuộc sống
thật ngắn ngủi và đầy bất trắc. Tôi chợt nghĩ, nếu mình cũng phải đi xa, xa
thật xa, mình sẽ để lại gì cho những người thân còn lại. Và tôi quyết định làm
di chúc. Cũng cất trong chiếc hộp có khóa, cùng với gia tài của tôi.
Bản di chúc đầu tiên tôi viết năm lên 8 tuổi, rất ngắn vì những
thứ mà tôi có thể để lại chẳng có gì nhiều. Những bức ảnh gia đình khi tôi còn
bé xíu để cho mẹ, và ba. Để lại cho hai đứa em trai những chiếc xe điện... để
lại cho ông ngoại cây gậy mà tôi nhặt được ở nhà kho. Để lại cho Bảo Vi, đứa
bạn thân nhất của tôi, chiếc nón vải.
Rồi tôi lớn lên, dù có ra sao tôi vẫn về nhà vào mỗi đêm giao
thừa, ngồi vào chiếc bàn bên cạnh cửa sổ, nhìn ra bầu trời tối đen, mịn màng
của đêm ba mươi và viết. Mỗi năm, tôi đến nhiều nơi hơn trong những chuyến du
lịch, hay đi công tác... và những thứ tôi nhặt nhạnh về cũng nhiều hơn: một
chiếc lược đồi mồi từ Hà Tiên, những nụ hoa ngọc lan khô cong vẫn thơm nồng nàn
như khi chúng đánh thức tôi dậy vào một đêm rất trong bên cạnh sông Tiền, một
chiếc vỏ ốc tầm thường dạt vào bãi biển Nha Trang, một mảnh đá xấu xí văng ra
khi tôi đi ngang qua những người thợ đục đá Non Nước. Và mỗi lần nhặt lên, tôi
đều nghĩ rằng tôi sẽ dành lại chúng cho ai đó mà tôi đã gặp trong đời. Chúng
đánh dấu sự hiện hữu của tôi trên thế gian, đánh dấu những bước chân của tôi đã
đặt lên mảnh đất này, miền đất nọ, và đánh dấu tình yêu mà tôi dành cho những
con người đã đến rồi đi trong đời tôi. Mỗi năm, những đồ vật chẳng đáng giá gì
mấy cứ chất đầy chiếc hộp, cả một quả bằng khô, một con ve sầu chưa kịp lột xác
còn giữ nguyên lớp vỏ màu xanh óng...
Những chiếc hộp chất đầy mãi trong phòng tôi. Cho đến một ngày,
tôi nhìn lại chiếc hộp đựng tờ di chúc của ông, nhận ra rằng trong đó không có
đồ vật nào khác ngoài tờ di chúc. Tôi bèn lôi những món đồ mà tôi định dành làm
"di vật" ra và phần phát cho tất cả mọi người. Tôi cảm nhận trong
lòng mình niềm vui được chia sẻ, và tôi cảm nhận trong ánh mắt mọi người niềm
hạnh phúc vì biết mình được yêu mến. Chiếc hộp trống không của ông đã dạy tôi
một điều: "Tình yêu không phải là thứ có thể cất trong những chiếc
hộp". Tình yêu thương của ta có ích gì, những món đồ mà ta nâng niu như
bảo vật kia có ích gì, nếu ta cứ nhặt nhạnh chỉ để cất vào trong hộp kín, thay
vì mang tặng chúng cho những người ta yêu?
- Đông Vy
Chương 10: Trở về mái ấm
Tha thứ tức là dẹp bỏ đi chuyện sầu thảm đớn đau và tiếp tục
song với niềm hạnh phúc của riêng mình.
- Amanda Ford
Trong suốt năm học, Jeff và tôi đã trò chuyện với nhau rất
nhiều, nhưng có một chuyện khiến tôi nhớ mãi là lần anh kể cho tôi nghe về gia
đình mình. Mẹ anh -một người phụ nữ hết mực yêu thương con và chu đáo -đã qua
đời không lâu sau khi Jeff tốt nghiệp trung học. Còn cha anh, một bác sĩ thành
đạt và theo lời Jeff, là một người lạnh lùng và nghiêm khắc. Ông tin chắc rằng
một người sẽ không bao giờ có thể đóng góp có giá trị cho thế giới được nếu
không theo học và tốt nghiệp đại học. Thậm chí ông đã chuẩn bị cho Jeff vào học
ở ngôi trường ông đã học ngày xưa và sẽ chu cấp toàn bộ tiền học phí cũng như
mọi chi phí ăn ở sinh hoạt cho Jeff trong suốt thời gian anh theo học. vốn là
một người năng động, ông rất phấn khởi với ý nghĩ một ngày nào đó con trai ông
sẽ nối nghiệp mình.
Giờ đây, Jeff đã 27 tuổi và là một nhà hoạch định kinh doanh
thành công tại một trong những công ty lớn nhất trong nước mà chẳng có một bằng
cấp nào. Thật ra, niềm đam mê của anh là môn trượt tuyết. Sau khi tốt nghiệp
trung học, anh quyết định từ chối những gì cha đã sắp đặt cho mình và chuyển
đến Colorado để làm việc trong một đội tuần tra trượt tuyết. Jeff kể cho tôi,
với nỗi đau còn hiện rõ trên đôi mắt, rằng anh vẫn còn nhớ như in cái ngày anh
nói với cha về niềm đam mê trượt tuyết và leo núi của anh cùng những dự định
của mình. Cha anh nhìn ra xa xăm, gương mặt ông từ từ đỏ lên và nhìn Jeff một
cách chán nản rồi thốt ra những lời mà đến giờ vẫn còn văng vẳng bên tai Jeff:
"Mày là một thằng lười biếng. Tao không có đứa con nào làm
việc cho khu trượt tuyết và không học đại học cả. Lẽ ra tao nên biết mày chẳng
được tích sự gì. Đừng quay về cái nhà này đến chừng nào mày có đủ lòng tự trọng
để dùng cái đầu mà Thượng Đế đã ban cho mày mà đi học!"
Ke từ lúc đó, hai cha con anh không nói với nhau một lời nào
nữa.
Jeff không chắc rằng cha anh có biết là anh đã quay về và ở gần
nhà hay không và dĩ nhiên anh không muốn ông biết là anh đang học đại học. Anh
lặp đi lặp lại rằng anh đang làm điều ấy cho chính bản thân anh chứ không phải
vì ông ấy.
Jeff có một người chị gái tên là Janice, luôn ủng hộ những quyết
định của anh. Chị vẫn liên lạc với cha nhưng Jeff không cho chị kể gì về Jeff
với ông.
Lễ tốt nghiệp của Jeff năm đó là một ngày nắng nóng trong tháng
sáu. Khi tôi đi quanh nói chuyện với mọi người trước khi lễ tốt nghiệp diễn ra,
tôi nhận thấy có một người đàn ông vẻ mặt bối rối:
- Xin lỗi, ông ta đến gần tôi và lịch sự hỏi, hôm nay ở đây đang
diễn ra cái gì vậy?
- Lễ tốt nghiệp đấy bác ạ! Tôi mỉm cười đáp.
- Lạ nhỉ - ông nói - con gái tôi bảo tôi đến gặp nó ở đây. Rồi
đôi mắt ông rạng rỡ và bất giác ông mỉm cười
- Có lẽ nó hoàn tất một đại học nào nữa và muốn làm tôi ngạc
nhiên đây!
Tôi giúp ông tìm một chỗ ngồi và khi chia tay tôi ông nói:
- Cám ơn cháu đã giúp bác. Nhân tiện, bác cũng xin giới thiệu
bác là bác sĩ Holstrom.
Tôi lạnh cứng người trong một giây. Jeff Holstrom. Bác sĩ
Holstrom. Đây có phải là người mà tôi được nghe kể hồi năm ngoái không? Đây
chính là người đàn ông lạnh lùng nghiêm khắc buộc con trai phải học đại học,
nếu không thì không bao giờ được trở về nhà nữa đây sao?
Không lâu sau, những giai điệu quen thuộc của bài "Pomp and
Circumstance" vang lên. Tôi quay về chỗ của mình và liếc nhìn bác sĩ
Holstrom. Dường như ông ta đang tìm con gái trong số những sinh viên tốt nghiệp
đang đứng trên sân khấu. Những bài diễn văn được đọc lên, lời chúc mừng được
gửi đến các sinh viên tốt nghiệp và chủ nhiệm khoa bắt đầu đọc danh sách những
người tốt nghiệp.
Jeff là người cuối cùng lên nhận bằng. Tôi nghe người ta đọc tên
anh: Jeff Holstrom. Anh bước ngang qua sân khấu, nhận tấm bằng từ tay ông hiệu
trưởng và ngay khi bắt đầu bước xuống bậc thang, anh đã đưa mắt xuống hàng ghế
khán giả phía dưới tìm chị mình.
Trong hàng ghế khán giả, có một dáng người đứng dậy - đó chính
là bác sĩ Holstrom. Tôi không biết làm thế nào mà Jeff có thể thấy được ông
trong đám đông, nhưng tôi biết mắt họ đã gặp nhau. Bác sĩ Holstrom mở rộng cánh
tay, như thể để ôm không khí quanh ông. Ông cúi thấp đầu, gần như muốn xin lỗi.
Trong một khoảnh khắc thời gian dường như ngưng đọng, và dường như chỉ có hai
người trong khán phòng. Jeff bước xuống cầu thang, đôi mắt anh đẫm lệ.
- Cha mình đấy! - anh thì thào với tôi - Tôi mỉm cười.
- Bây giờ anh định làm gì? Tôi hỏi.
- À - anh nói - tôi nghĩ tôi sẽ về thăm gia đình mình.
Chương 11: Gã khổng lồ một mắt
Vẻ đẹp thật sự nằm ở ngay trong trái tim của bạn.
- AI Bernstein
Sao mà lũ bò cái này luôn chọn những đêm giá rét như vầy để sinh
con không biết? - Bill nói với giọng Ồm Ồm, lộ rõ sự e ngại hơn là khó chịu khi
cùng Scott và tôi bước về khu chuồng trại. Bây giờ đã là nửa đêm, nhiệt độ ở
thung lũng Singing đã xuống tận âm 5 độ!
Con Valentine thuộc giống bò khoang đen của vùng núi Friesland,
Hà Lan. Lần này nó sinh muộn gần một tháng. Chúng tôi rất lo lắng vì nó mập một
cách bất thường - nặng gần 164 kg. Suốt ba giờ nó chuyển dạ, chúng tôi luôn ở
bên canh chừng. Con vật tội nghiệp cứ thở khò khè mệt nhọc, cào cấu vào đám rơm
khô vương vãi ở xung quanh. Cuối cùng nó ngã vật ra đất và với sự giúp đỡ của
chúng tôi, nó sinh được một con bê khoảng 63 kg, nặng gấp đôi bình thường với
bộ lông màu vàng sậm như kẹo bơ nấu đường. Xong xuôi, chúng tôi vội vã quay về
tiếp tục giấc ngủ còn dang dở.
Tờ mờ sáng, tôi đi xuống khu chuồng để xem đám bê con đã thức
giấc và bú sữa chưa. Mới đến cửa chuồng, tôi đã nghe tiếng mút sữa của chúng ồn
ào ở góc trong. Bất chợt chân tôi vấp phải một vật gì cưng cứng vùi trong đống
rơm. Một tiếng ré đau đớn vang lên như muốn xé toạc bóng đêm.
Tôi vội vàng bật đèn lên và hết sức bất ngờ với những gì nhìn
thấy trước mắt - một con bê màu đen xấu xí đã được sinh ra sau con bê vàng đêm
hôm qua. Hình thù của nó hết sức quái dị, cái đầu to quá khổ, trên lưng nhô lên
một cái bướu to tương, bốn chân lùn xủn của nó xoắn lại và các đầu guốc chân
phình to. Nó đang run lẩy bẩy.
Bỗng nhiên tôi thấy thương hại con bê, tôi quỳ xuống đưa tay
chạm vào người nó. Con bê rống lên thảm thiết và sục vào các ngón tay tôi để
tìm sữa. Tôi xoay nhẹ đầu nó để trông rõ mặt. Tim tôi như thắt lại. Con bê chỉ
có một mắt. Tạo hóa lại có thể tàn nhẫn đến thế sao?
Tôi chẳng hiểu sao mình lại không giết quách con bê ấy đi. Con
bê vàng sinh đôi với nó cũng tỏ ra kinh sợ nó. Đến cả con bò mẹ cũng ghét bỏ
nó. Mỗi khi nó lần tới để mút sữa, con Valentine liền đá vào mặt và húc vào
cạnh sườn cho nó ngã xuống. Dù rất đau đớn và bị rỉ máu ở các vết thương, nó
vẫn gượng đứng dậy và cố gắng thử thêm lần nữa. Sau nhiều lần như thế, nó đành
lủi ra góc chuồng chờ cho tới khi Valentine nằm xuống nghỉ ngơi mới lén tới bú.
Những lúc đó trông nó như một thủy thủ sắp chết đuối vớ được phao.
Ban đầu bọn trẻ đều khiếp sợ nó. Nhưng rồi nhìn cảnh con bê con
tật nguyền cố vật lộn để sống khiến chúng mủi lòng. Scott bảo:
- Nó cũng dễ thương lắm. Mỗi lần tụi con mang đồ ăn đến nó đều
loạng choạng chạy ra đón và nhất định bám theo đến khi được gãi đầu mới thôi.
Một buổi chiều, Jennifer - con gái tôi - kể cho tôi nghe về
truyện Ơiysses của Homer mà cháu được học trên lớp, trong đó có nói đến người
khổng lồ một mắt mang tên Cyclops!
- Con thấy cái tên Cyclops cũng hợp với con bê của mình đó chứ
ba?
Thế là từ đó con bê tật nguyền được gọi là Cyclops. Chỉ trong
vài tháng, nó đã chiếm được tình cảm của nhiều người và trở thành con vật cưng
của nông trại. Đám con nít thì thích chơi và đút kẹo cho Cyclops ăn. Còn nó, để
tỏ lòng biết ơn, thường liếm vào tay hay đôi má ửng hồng của đám trẻ. Lâu lâu,
bọn trẻ lại gọi tôi:
- Ba ơi, xem Cyclops thương con này!
Chúng tôi nhận thấy những con vật khác trong nông trại cũng rất
thích Cyclops. Vào mùa đông, con mèo con nằm cuộn tròn trên cái bướu khổng lồ
của nó để sưỏi ấm; còn khi hè đến, đám gà và chó nằm trốn nắng ngay dưới cái
bóng to lớn của nó.
Trong số đó, Cyclops thân với một chú gà con tên là Omelette
nhất. Chúng biết nhau khi Omelette chưa đầy một tuần tuổi. Đầu tiên, chú gà mon
men đến bên con
Cyclops, đưa mỏ nhấm những giọt mồ hôi đang chảy xuống cánh mũi
đen bóng của chú bò con đang nằm ngủ. Bất thần, Cyclops khịt mũi mạnh khiến chú
gà con này văng ra xa. Không hoảng sợ, Omelette tiếp tục vòng lại và cuối cùng
nhảy lên mặt Cyclops, mổ tiếp vào đôi sừng kỳ lạ của nó, đôi sừng cong gập
thành những khối u sần sùi tạo điều kiện cho rận và ruồi làm tổ. Điều này làm
cho Cyclops hết sức khó chịu dù nó cố cọ vào các thân cây để đuổi đám khách
không mời đi.
Con Omelette đã nhanh chóng phát hiện ra bữa tiệc thịnh soạn của
mình ngay dưới đôi sừng của Cyclops. Đến cuối mùa hè, chú gà trống choai đã lớn
phổng và chẳng ai thấy ngạc nhiên khi bắt gặp Omelette đậu trên sừng Cyclops,
lùng sục những con sâu bọ quấy rối giấu mặt.
Tuy thế, Cyclops vẫn bị đồng loại hắt hủi. Suốt hai năm đầu,
chẳng một con bò hay con bê nào chấp nhận sự hiện diện của nó.
Đến khi lên ba, Cyclops cân nặng gần 80 kg. Mỗi tháng nó ăn gần
hết một tấn cỏ khô. Chúng tôi tránh đả động tới sự vô dụng của nó so với đám bò
lông đỏ nòi Hereford của Bill. Tại sao chúng tôi lại chịu tốn tiền bạc và thời
gian giữ lại cái hậu quả đáng tiếc từ sai lầm của tạo hóa này nhỉ?
Rồi mùa xuân, mùa sinh sản của bầy gia súc, lại đến. Người ta
thả những con bò đực và bò cái cùng giống vào cánh đồng cỏ mà họ đã chọn sẵn.
Như mọi người, Bill cũng tách 20 con bò cái tơ ra riêng một cánh đồng.
Điều khó khăn và tốn nhiều thời gian nhất trong việc gây giống
là phải xác định đúng thời điểm một con bò cái động đực. Chúng tôi phải mất
nhiều giờ liền quan sát xem đám bò cái có biểu hiện cho thấy chúng sẵn sàng để
phối giống hay chưa. Lúc đó, Cyclops chẳng còn được tự do chạy rông. Do e rằng
nó có thể khiến cho đàn bò sợ hãi nên chúng tôi đã nhốt nó lại. Cyclops phát
cuồng vì cô đơn. Nó chạy tới chạy lui, cào cấu, rống mãi cho đến lúc kiệt sức,
chỉ còn thều thào được.
Sau nhiều tháng, chúng tôi chỉ phối giống được cho hai trong số
hai mươi con bò cái tơ. Trong lúc Bill bắt đầu nản lòng thì chúng tôi chợt để ý
Cyclops. Nó thôi không đi tới đi lui nữa mà ngó đăm đăm về phía một con bò cái
tơ. Suốt mấy tiếng đồng hồ, nó cất giọng thế thé của mình lên và con bò cái
cũng cất giọng ngọt ngào đáp lại. Bill quay sang tôi:
- Anh nghĩ biết đâu con vật tội nghiệp này biết những điều mà
chúng ta không biết.
- Vậy ta thả nó ra xem sao - Scott nói - Do khuyết tật bẩm sinh
mà Cyclops bị bất lực. Dau sao nó cũng không thể phối giống được. Nhưng nó đâu
có gây hại gì?
Chúng tôi mở cửa chuồng. Cyclops khịt mũi mạnh rồi loạng choạng
chạy ra bãi cỏ trên những cái chân vặn vẹo ngắn ngủn. Đàn bò bỏ chạy tán loạn,
nhưng anh chàng đã nhanh chóng tìm ra đối tượng của mình. Khi nghe tiếng rống
của Cyclops, cô nàng bò cái đứng sựng lại ngay. Cyclops thận trọng tiến tới
gần, hơi nghiêng đầu để cạ cái mồm mềm như nhưng vô cổ cô nàng. Cuối cùng, cô
nàng cũng để cho chàng tựa đầu vô vai. Cyclops của chúng tôi chỉ có thể làm
được đến thế. Vậy là nàng bò cái đã sẵn sàng cho phối giống.
Trong hai năm kế tiếp đó, Cyclops đã trở thành công cụ dò tìm
chuyên giúp chúng tôi xác định xem cô bò cái nào đã sẵn sàng để cho phối giống.
Năm đầu tiên đó, nó đạt được độ chính xác đến 98% và đến năm sau là 100%. Từ
đó, chẳng có ai cho chú bò đực nhà tôi là vô tích sự và Cyclops cũng không còn
cô đơn nữa.
Tuy thế, Cyclops chỉ sống với chúng tôi được đến bốn tuổi rưỡi.
Nó ra đi nhẹ nhàng ngay bên dưới bóng cây nó vẫn thường nằm. cổ họng tôi nghẹn
đắng khi sờ tay lên cổ Cyclops. Lúc hay tin ấy, mấy đứa trẻ đều òa khóc.
Tôi chợt nhận ra rằng chú bò kỳ quặc của mình đã đánh thức trong
chúng tôi một điều tưởng chừng đã bị lãng quên - đó là thái độ cảm thông sâu
sắc đối với những ai kém may mắn hơn đồng loại.
Cyclops chỉ khác biệt những con bò khác ở vẻ bề ngoài. Còn trái
tim nó cũng cháy bỏng một khát vọng sống mà Thượng Đế đã ban đều cho muôn loài.
Nó yêu mến chúng tôi và ngược lại, chúng tôi cũng thương yêu nó vô cùng.
Một tâm hồn trào dâng lòng nhân ải và sự đồng cảm thì lúc nào
cũng sẽ rạng rỡ.
- Parke Gogwin
Chương 12: Tiếng nói không lời
Nếu có người nào đó nói rằng họ vừa giàu có lại vừa hài lòng với
những gì họ có, bạn hãy chắc rằng họ hài lòng bởi họ biết cách để được hài
lòng, chứ không phải vì họ giàu có.
- Charles Wagner
Dường như tôi đã hoàn toàn chịu thua, không thể tìm ra cách gì
khác để cải thiện tình hình. Ngay từ ngày đầu tiên bước vào cấp hai, Willard p.
Franklin đã bắt đầu sống trong thế giới của riêng mình. Em khép kín lòng mình
đối với các bạn cùng lớp cũng như với tôi, giáo viên của em. Những nỗ lực thiết
lập một mối quan hệ thân thiện của tôi với em chỉ được đáp trả bằng sự lãnh
đạm. Thậm chí những lời chào hỏi thân thiện của tôi em cũng chỉ đáp lại bằng
những câu lầm bầm trong cửa miệng. Tôi nhận thấy bạn bè cùng lớp cũng không
nhận được điều gì dễ chịu hơn từ Willard so với tôi. Willard hoàn toàn là một
kẻ cô độc, dường như em không có mong muốn hay thấy cần phải phá vỡ bức tường
im lặng của mình. Sau ngày lễ Tạ ơn không lâu, lớp chúng tôi nhận được lời kêu
gọi quyên tiền Giáng Sinh hàng năm cho những học sinh kém may mắn trong trường
chúng tôi.
- Giáng Sinh là mùa trao tặng - tôi nói với các học sinh của
mình - Trường chúng ta có một số bạn có thể không đủ điều kiện để hưởng một kỳ
nghỉ lễ hạnh phúc. Bằng cách ủng hộ tiền cho việc quyên góp nhân dịp Giáng Sinh
này, chúng ta có thể mua thực phẩm, quần áo và đồ chơi để làm quà tặng cho
những bạn còn thiếu thốn đó.
- Chúng ta sẽ bắt đầu quyên tiền vào ngày mai các em nhé! - tôi
dặn các học trò của mình.
Ngày hôm sau, tới giờ quyên góp, tôi phát hiện ra rằng hầu như
các học sinh đều đã quên mất chuyện ấy, ngoại trừ Willard p. Franklin. Em thọc
sâu tay vào túi quần của mình khi đi đến bàn tôi và cẩn thận bỏ hai đồng 25 xu
vào chiếc thùng nhỏ.
- Em không cần phải uống sữa vào bữa trưa - em nói lí nhí trong
miệng.
Thoáng qua mắt tôi, trong một khoảnh khắc hiếm hoi, tôi thấy
Willard mỉm cười. Sau đó, em xoay người và bước về bàn mình. Chiều hôm đó, sau
giờ tan học, tôi đem số tiền quyên góp ít ỏi đến cho ông hiệu trưởng. Tôi không
thể nào ngăn mình không chia sẻ với ông ấy câu chuyện về Willard.
- Có thể là tôi sai, nhưng tôi tin rang Willard có lẽ đang sẵn
sàng để hòa nhập vào thế giới xung quanh em. Tôi nói với thầy hiệu trưởng.
- Vâng, tôi tin vào dấu hiệu sáng sủa mà cô vừa nói, ông gật
đầu. Và tôi có linh cảm rằng có thể chúng ta đã có đủ thông tin để giúp em ấy
chia sẻ một phần thế giới của em với chúng ta. Tôi vừa nhận được danh sách các
gia đình cần được trợ giúp nhất của trường chúng ta trong dịp Giáng sinh này.
Đây, cô hãy nhìn xem!
Khi nhìn vào danh sách, tôi đọc thấy tên Willard p. Franklin và
gia đình em nằm ngay hàng đầu của danh sách này.
Chương 13: Mẹ và con gái
Mẹ đừng quên đem theo máy nghiền khoai tây nghe mẹ? Tôi dặn mẹ
qua điện thoại như thế sau khi báo với bà rằng tôi vừa trải qua một cuộc tiểu
phẫu ở ngực. Dù đã bưởc vào tuổi tám mươi và đang ở cách xa tôi ba ngàn dặm,
nhưng mẹ biết những gì tôi cần
- súp khoai tây nghiền.
Đó là món ăn mà mẹ vẫn thường nấu mỗi khi tôi đau ốm hay gặp tai
nạn hồi còn bé - chén súp khoai tây nóng hổi và một chiếc muỗng. Nhưng hồi nhỏ
rất ít khi tôi ốm. Và món khoai tây của mẹ là liều thuốc hiệu nghiệm giúp tôi
vượt qua cơn cúm nhanh chóng. Tuy nhiên, lần này thì khác: bệnh của tôi rất
nặng.
Đáp một chuyến bay dài từ Virginia đến nơi tôi sinh sống ở
Caliíornia, mẹ không hề lộ vẻ mệt mỏi mà trái lại, trông bà rất tươi khi bước
vào nhà. Tôi vừa xuất viện được một ngày và vẫn còn rất mệt. Nhưng điều cuối
cùng mà tôi thấy trước khi chìm vào giấc ngủ là hình ảnh mẹ đang mở chiếc vali
và lấy ra cái máy nghiền khoai tây đã 60 tuổi được gói cẩn thận. Cái máy đó là
của hồi môn của mẹ, có tay cầm bằng gỗ đã mòn nhưng chất chứa biết bao kỷ niệm.
Ngày tôi buồn bã đến bảo mẹ rằng tôi phải chữa bệnh bằng hóa học
trị liệu, mẹ đang ngồi nghiền khoai tây. Bà dừng tay lại và nhìn thẳng vào mắt
tôi:
- Mẹ sẽ ở bên con dù phải mất bao lâu đi nữa. Trong cuộc đời mẹ,
chẳng có gì quan trọng hơn việc chăm lo cho các con cả.
Trước kia, tôi luôn nghĩ tôi là đứa bương bỉnh trong gia đình,
nhưng đến những năm tháng sau đó tôi mới nhận ra tính cách thực sự của mình.
Mẹ quả quyết rằng tôi không được rồi khỏi thế giới này trước bà.
Đơn giản là bà không muốn điều đó. Mỗi ngày bà đều dẫn tôi đi bộ, thậm chí khi
tôi không thể đi xa hơn chiếc cổng nhà mình. Bà nghiền những viên thuốc mà tôi
phải uống rồi đặt chúng vào một cái lọ vì dù đã ở tuổi trung niên và có con cái
đã trưởng thành, tôi vẫn không thể nuốt được một viên thuốc tốt hơn hồi tôi còn
bé. Khi tóc tôi bắt đầu rụng, mẹ mang cho tôi những chiếc nón xinh xắn. Bà pha
cho tôi những cốc nước gừng để làm ấm dạ dày và ngồi xuống cạnh tôi trong những
đêm tôi mất ngủ. Khi tôi ngồi, mẹ đứng. Còn khi mẹ ngồi, hẳn tôi đã ngủ. Chưa
lần nào tôi trông thấy mẹ ngồi yên cả.
Cuối cùng, tôi cũng bình phục. Và tôi lại tiếp tục công việc của
mình.
Giờ đây, tôi khám phá ra rằng Ngày Của Mẹ không phải chỉ là ngày
chủ nhật nào đó trong tháng 5, mà mỗi ngày đều là ngày của mẹ nếu ta may mắn có
một người mẹ bên mình để yêu thương.
Chương 14: Sức mạnh của niềm tin
Khi đối mặt với một thử thách nào đó, hãy tìm cách vượt qua nó
chứ đừng tìm lối thoát.
- David L. Weatherford
Chú diều hâu lơ lửng trên bầu trời như thể nó bị treo ngược trên
một tấm vải vô hình, đôi cánh khỏe mạnh của nó giang ra bất động. Cảnh ấy trông
thật giống một cuộc trình diễn ảo thuật cho đến khi đột nhiên nó bị cắt ngang
bởi một tiếng súng phát ra từ chiếc xe đằng sau chúng tôi.
Tôi giật bắn người và mất kiểm soát chiếc xe tải nhỏ của mình.
Nó chạy lung tung điên loạn, trượt nghiêng theo bờ lề đầy sỏi trước khi dừng
lại cách một hàng rào kẽm gai chỉ vài centimet. Tim tôi đập thình thịch khi
thấy một chiếc xe vượt qua chúng tôi, một họng súng thép nhô ra ngoài cửa sổ,
và tôi không thể quên nụ cười vui sương trên gương mặt của thằng bé đã bóp cò.
- Mẹ, con sợ quá! - Scott, đứa con trai 14 tuổi, ngồi bên tôi la
lên. - Con nghĩ nó đang định bắn chúng ta! Nhìn kìa! Nó bắn con diều hâu!
Trước đó, trong lúc lái xe từ Tucson trở về nông trại dọc theo
đường Intersate 10 ở Arizona, chúng tôi bị
cuốn hút bởi một cặp diều hâu đuôi đỏ tuyệt đẹp đang sà thấp
xuống sa mạc Sonoran. Chúng nhảy lên vui sương và bay lượn ngoạn mục trên đầu
các cây ngọc giá và xương rồng. Hai con chim xinh đẹp vừa bay vừa nhìn nhau như
thể cùng chờ sóng đôi.
Đột nhiên, một con chuyển hướng bay vút lên bầu trời, nó lơ lửng
một lúc trên không như thách thức người bạn mình nhập cuộc. Nhưng tiếng súng nổ
đã chấm dứt cuộc trình diễn của nó, biến khoảnh khắc ấy thành một hình ảnh bộ
lông vũ như bùng nổ, rơi tung tóe từ bầu trời hoàng hôn màu cam đỏ.
Chúng tôi sợ hãi nhìn những vòng xoắn của chiếc đuôi đỏ bay
xuống mặt đất, rồi chúng thình lình giật mạnh, rơi thẳng xuống con đường nơi
một chiếc xe 18 bánh đang chạy đến. Những tiếng phanh gấp rít lên, nhưng đã quá
trễ, chiếc xe tải đã đâm vào con chim khiến nó bị văng ra giữa đường.
Scott và tôi nhảy ra khỏi xe và chạy về nơi con chim bị thương
đang nằm. Trông kích thước của nó chúng tôi đoán đó là con đực. Nó đang nằm
ngửa, một chiếc cánh gãy gập lại bên dưới, cái mỏ to khỏe của nó mở tròn ra,
đôi mắt vàng tròn xoe cũng mở rộng trong nỗi đau đớn hãi hùng. Những chiếc móng
trên chân trái của nó toạc ra. Còn phần đuôi lấp lánh nơi đã từng phát ra ánh
sáng nhạt giống như một chiếc diều màu đồng đỏ bóng láng trên bầu trời phía Tây
Nam, nay chỉ còn lại một cọng lông đỏ.
- Chúng ta phải làm gì đó chứ mẹ - Scott nói.
- ừ - tôi thì thầm - Chúng ta phải mang nó về nhà thôi.
Scott trùm chiếc áo lên con chim, bọc chắc nó rồi mang vào xe.
Khi tôi đặt tay lên chùm chìa khóa vẫn còn nằm trên công tắc để chuẩn bị chuyển
bánh, lòng chúng tôi thấy buồn rưòi rưọi. Từ trên bầu trời cao đang tắt dần ánh
mặt trời, chúng tôi nghe thấy những tiếng kêu ai oán của con diều hâu còn lại.
- Con chim kia sẽ làm gì hả mẹ? - Scott hỏi.
- Mẹ không biết - tôi nhẹ nhàng trả lời - Mẹ nghe thấy chúng hẹn
sẽ gặp lại nhau.
Vừa về nông trại, chúng tôi cẩn thận chăm sóc cho con diều hâu.
Khi con chim nằm bất động, chúng tôi lấy những mảnh xưong vụn từ đôi cánh gãy
dập của nó ra, sau đó cố gắng uốn nó lại ở những điểm nối chính. Nó chỉ dập một
nửa. Trải qua tất cả những đau đớn này, con diều hâu chẳng nhúc nhích gì. Dấu
hiệu duy nhất của sự sống là mí mắt sưng húp của đôi mắt đầy sợ hãi của nó vẫn
thỉnh thoảng rươn lên.
Không biết phải làm gì tiếp, tôi điện thoại cho một bác sĩ thú
y. Khi nghe tôi kể về hoàn cảnh của con diều hâu đuôi đỏ, vị bác sĩ tỏ ra rất
thông cảm.
- Tôi hiểu ý cô - ông ta nói - nhưng cho nó một giấc ngủ nhẹ
nhàng là cách tốt nhất.
- Ý ông là tôi nên bỏ nó đi hả? - tôi hỏi, quỳ xuống và nhẹ
nhàng vuốt ve con chim lông nâu vàng giờ đang được giữ trong một chiếc thùng
thưa bằng gỗ trên sàn bếp nhà tôi.
- Nó sẽ không bao giờ có thể bay lại với một cánh bị thương nặng
như thế - ông ta giải thích - Nó sẽ chết đói mất. Các con diều hâu cần có móng
vuốt cũng như mỏ để xé thức ăn. Tôi rất lấy làm tiếc.
Khi gác máy, tôi biết rằng ông ta đã nói đúng.
- Nhưng con diều hâu chưa có cơ hội để chiến đấu mà? Scott cãi.
Chiến đấu vì cái gì? Tôi thắc mắc. Để chui vào lồng ư? Đe không
bao giờ bay lại được nữa ư?
Đột nhiên, với niềm tin sôi nổi của tuổi trẻ, Scott đã quyết
định thay cho chúng tôi. Biết đâu, nhờ điều kỳ diệu nào đó, nó có thể sẽ bay
lại vào một ngày kia, Scott nói:
- Chẳng lẽ không đáng thử xem sao hả mẹ?
Trong ba tuần, con chim không hề cử động hay ăn uống gì. Chúng
tôi buộc phải cho nước vào miệng nó bằng ống tiêm, nhưng cái sinh vật thảm hại
chỉ nằm đó nhìn trừng trừng, không chóp mắt, và thở rất yếu ớt. Rồi một buổi
sáng, con đuôi đỏ nhắm mắt.
- Mẹ, nó... chết rồi! Scott ấn những ngón tay bên dưới bộ lông
bện lại với nhau của con chim. Tôi biết nó đang tìm kiếm, cầu nguyện một nhịp
tim đập, và hồi ức về chiếc xe chạy lao nhanh cùng thằng bé đang cười tay cầm
khẩu súng lại quay về ám ảnh tôi.
- Có lẽ ta nên cho nó thử một ít rượu uỷt-ki - tôi nói. Đó là
phương cách cuối cùng, một kỹ thuật chúng tôi từng sử dụng để kích thích một
con vật thở. Thế là, chúng tôi cạy miệng con diều hâu ra rồi đổ một muỗng
uýt-ki vào cổ họng nó. Ngay lập tức nó mở mắt ra và gục đầu vào tô nước trong
chuồng.
- Nhìn nó kìa, mẹ! Nó đang uống nước! Scott reo lên, nước mắt ứa
ra.
Đến đêm, con diều hâu đã ăn xong nhiều khoanh thịt rải trên cát
để giúp nó dễ tiêu hóa. Ngày hôm sau, vẫn mang đôi găng tay đã cũ, Scott đưa nó
ra khỏi chuồng rồi ôm nó đến chỗ lò sưỏi, nơi nó đứng lảo đảo cho đến khi những
chiếc móng của nó kẹp chặt. Khi Scott buông con chim ra, bên cánh còn lành lặn
của nó gập chậm như chuẩn bị bay, nhưng chiếc cánh kia thì cứng ngắc, nhô lên
khỏi vai như muốn bật lại. Chúng tôi nín thở cho đến khi con diều hâu đứng
thẳng được.
Ngày qua ngày, con chim này vẫn chăm chăm nhìn mỗi hành động của
chúng tôi, nhưng sự sợ hãi trong đôi mắt nó đã biến mất. Nó sẽ sống. Giờ đây,
liệu nó có học cách tin tưởng chúng tôi không nhỉ?
Với sự đồng ý của anh trai, Becky - con gái tôi - đã đặt tên cho
con diều hâu là con Chiến. Chúng tôi dựng cho nó một cái chuồng bằng dây xích
cao gần 3 m, không bít đầu. Ớ đó nó sẽ an toàn, không phải sợ những con linh
miêu, chó sói, gấu trúc và sói xám tấn công. Ớ góc bên trái chiếc lồng đó,
chúng tôi treo một nhánh cây dài cách mặt đất khoảng 10 cm. Như một tù binh của
những vết thương của chính mình, suốt ngày suốt đêm, con chim què quặt cứ đậu
trên cành cây đó, nhìn chăm chăm lên trời, quan sát, lắng nghe và chờ đợi.
Khi mùa thu dần trôi qua và mùa đông lại đến, con Chiến bắt đầu
thay lông. Dù đã kiêng ăn thịt, hành, bơ và trứng, nó vẫn rụng gần hết lông cổ.
Lông ở ngực, lưng và cánh cũng rụng nhiều, chỉ còn lưa thưa vài cọng một trên
một lớp da non. Chẳng mấy chốc, trông nó như một cụ già đầu hói trùm trên đầu
một chiếc chăn chắp vá.
- Có lẽ nó cần một ít vitamin - Scott nói - Con không thích nhìn
thấy nó mất bộ lông đuôi đỏ. Trông nó ngộ quá à!
Dường như những viên vitamin đã giúp đỡ cho chú diều hâu. Bộ
lông cánh của nó trở nên đẹp lộng lẫy đến nỗi chúng tôi ngỡ rằng nó tỏa sáng
lấp lánh.
Rồi sự tin tưởng ngày một tăng lên của Chiến đối với chúng tôi
khiến chúng tôi vô cùng yêu nó. Chúng tôi thích làm hỏng nó bằng cách đãi nó
những món thịt hun khói hay thịt bò khô nhúng nước đường. Chẳng bao lâu sau,
cái mỏ của nó đã đủ khỏe để quặp xương cang của một con thỏ nhỏ hay đè bẹp sọ
của một con chuột sa mạc. Còn Becky đã thân với nó đến nỗi không cần đeo găng
tay khi đút cho nó ăn.
Chiến thích chơi đùa. Trò nó thích nhất là kéo co. Nó kẹp chặt
chiếc vớ cũ trong mỏ và một người trong chúng tôi kéo đầu kia, nó luôn giành
phần thắng, không bao giờ để bị kéo đi, ngay cả khi Scott nhấc nó lên và quay
ngoắt nó lại. Còn Becky thì thích nhất là trò đi vòng tròn quanh chiếc lồng của
Chiến, trong khi đó mắt con diều hâu cứ nhìn theo đến khi đầu nó quay
180 độ. NÓ hoàn toàn ngoặt đầu lại nhìn chúng tôi!
Chúng tôi ngày càng yêu quý Chiến. Chúng tôi trò chuyện và vuốt
ve bộ lông mượt như nhưng của nó. Vậy là chúng tôi đã cứu sống và thuần hóa một
con vật hoang dã. Nhưng bây giờ chúng tôi phải làm gì? Có nên thả nó về với bầu
trời, thế giới của nó hay không?
Scott hẳn cũng đã băn khoăn về điều đó, ngay cả khi nó mang theo
con vật cưng của mình đi khắp nơi với niềm tự hào nuôi được con chim ưng. Một
ngày nọ, Scott nâng nhánh cây của Chiến lên, cách mặt đất 50 cm và vừa qua đầu
con diều hâu.
- Nếu phải gắng sức trèo lên cái cành đó, nó sẽ mạnh hơn - Scott
bảo.
Nhận thấy cành cây đã cao hơn, Chiến đi vòng quanh dò xét. Nó
kêu lên và tặc lưõi. Sau đó, nó nhảy lên nhưng bị hụt, nó lại đứng trên sàn bê
tông, cất tiếng huýt một cách đáng thương. Nó cố làm đi làm lại nhưng đều thất
bại. Đến khi chúng tôi nghĩ nó đã chịu thua, thì nó đu được lên cành cây. Nó
dùng mỏ quặp lên trước, sau đó dùng móng kéo cành cây xuống. Cuối cùng nó cũng
đứng thắng trên cành cây.
Scott bảo tôi:
- Mẹ có thấy không? Nó đang cố cử động cái cánh bị thương của
nó. Thấy không mẹ?
- Mẹ không thấy - tôi trả lời - Nhưng tôi lại thấy điều khác, nụ
cười trên gương mặt con trai tôi. Tôi biết Scott vẫn đang hy vọng một phép màu.
Mỗi tuần sau đó, Scott lại nâng cành cây lên một chút, cho đến
khi Chiến ngồi hãnh diện ở độ cao 120 cm. Trông nó mới hài lòng làm sao - rươn
người lên và rỉa bộ lông lởm chởm của mình. Nhưng 120 cm là giới hạn hết mức
của nó. Chiến không thể nhảy cao hơn.
Rồi mùa xuân đến, mang thời tiết ấm áp và các loại chim cùng về
theo: bồ câu, chim cút, gà lôi đuôi dài và những con hồng tước xương rồng.
Chúng tôi nghĩ Chiến sẽ thích thú tất cả các tiếng chim líu lo. Nhưng không,
chúng tôi lại cảm thấy một nỗi buồn nào đó xâm chiếm con diều hâu bé nhỏ của
chúng tôi. Nó gần như không ăn, bỏ mặc những lời mời chơi đùa và cứ ngồi ngẩng
đầu nghe ngóng.
Một buổi sáng, chúng tôi thấy nó đậu trên cành cây với đôi cánh
giang rộng, đập chiếc cánh bị thương một cách vô vọng. Cả ngày nó chỉ ở trong
một tư thế duy nhất, cất tiếng kêu cay đắng đáng thương. Cuối cùng chúng tôi
cũng nhận ra điều đã làm nó ưu phiền: Cao cao trên bầu trời, một con diều hâu
đuôi đỏ khác đang bay lượn.
Phải chăng đó là người bạn bay cùng ngày nào của nó? Tôi tự hỏi.
Làm sao có thể như thế nhỉ? Nơi đây cách chỗ chúng tôi đã tìm thấy Chiến đến 30
dặm mà, và cũng rất xa khu vực mà diều hâu thường trú ẩn. Phải chăng bạn nó
bằng cách nào đó đã theo nó về đây? Hay đơn giản là nhờ một số bí mật của thiên
nhiên, ngoài tầm hiểu biết của chúng tôi mà cô bạn diều hâu biết nó đang ở đâu?
- Con chim cái sẽ làm gì khi nhận ra con chim đực
không bay được hả mẹ? - Scott hỏi.
Tôi buồn rầu đáp:
- Mẹ nghĩ là nó sẽ thất vọng và bay đi. Chúng ta hãy đợi xem.
Và chúng tôi không phải đợi lâu. Sáng hôm sau, Chiến ra đi. Vài
cọng lông gãy nằm dưới đất và vài cọng vương trên chiếc lồng là manh mối của
chuyến ra đi vất vả của nó.
Bao nhiêu câu hỏi cứ vang lên trong đầu chúng tôi. Nó đã đi bằng
cách nào? Chỉ có khả năng duy nhất là nó tự kéo mình qua khỏi hàng rào cao gần
3 m, đầu tiên quắp mỏ vào hàng rào, sau đó dùng một bên móng còn tốt của nó bám
lên. Rồi nó hẳn đã té xuống đất ở độ cao gần 3 m.
Làm sao nó sống được nhỉ? Nó không thể săn mồi. Việc bám để đậu
được trên cành và cắp một miếng thịt cùng lúc bằng một chiếc móng gần như không
có khả năng xảy ra. Khi phải đối mặt với những con chó sói và linh miêu thì
sao? Con diều hâu què quặt của chúng tôi hẳn sẽ dễ dàng trở thành miếng mồi của
chúng. Nghĩ đến điều đó tim chúng tôi đau nhói.
Tuy nhiên, một tuần sau, con diều hâu lại về đậu trên đống củi
cạnh cửa nhà bếp. Trong mắt nó lấp lánh một tia sáng mà chúng tôi chưa từng
thấy bao giờ. Chiếc mỏ của nó mở ra!
- Nó đang đói! - tôi la lên.
Rồi con chim vồ lấy một miếng thịt hun khói từ tay
Scott và ăn ngấu nghiến.
Sau khi ăn xong, Chiến nhảy những bước ngắn vụng về xuống đất và
chuẩn bị đi. Chúng tôi nhìn theo khi nó tung người lên, đâm vào những cây thấp
trên cánh đồng, một bên cánh vỗ mạnh, còn cánh kia như một gánh nặng vô ích.
Phía trước mặt nó, con diều hâu cái đang sà xuống tới lui, kêu la và huýt gió
khích lệ cho đến khi nó bay an toàn đến ngang một lùm cây.
Chiến quay về lấy thức ăn trong suốt mùa xuân. Rồi một ngày kia,
thay vì về lấy thức ăn, nó co người lại kêu quang quác. Chúng tôi nhẹ nhàng nói
chuyện với nó như trước đây, nhưng đột nhiên nó đánh mạnh chiếc mỏ. Chú diều
hâu đã tin tưởng chúng tôi suốt gần một năm trời giờ đây đang sợ hãi. Tôi biết
nó đã sẵn sàng trở về với cuộc sống hoang dã.
Mấy năm trôi qua, thỉnh thoảng chúng tôi lại trông thấy một con
chim đuôi đỏ cô đơn bay qua những cánh đồng của chúng tôi. Phải chăng bằng cách
nào đó Chiến còn sống? Nếu nó đã chết rồi thì việc chúng tôi cố gắng nuôi mãi
hình ảnh của nó trong lòng có đáng không?
Chín năm sau, khi Scott đã 23 tuổi, nó gặp lại một người bạn cũ
tại Phoenix, người trước đây sống gần nông trại chúng tôi.
- Bạn không thể tin nổi đâu, Scott - anh ta nói - nhưng tôi nghĩ
đó chính là con diều hâu của bạn. Tôi đã trông thấy một con diều hâu trong một
bụi cây sồi khi tôi về nhà nhân dịp lễ Giáng Sinh. Một bên cánh của nó gãy dập
nát giống như Chiến.
- Hãy đến đó xem đi mẹ.
Hôm sau, tôi lái xe về phía Bắc, chạy mãi cho đến khi những con
đường đầy bụi bặm dần biến mất, thay vào đó là những lối mòn ngoằn ngoèo do
những con trâu và bò để lại và cuối cùng không còn lối để đi. Đến khi những
cành cây gai góc và những bụi hồng dại mọc lởm chởm khiến tôi không thể lái xe
được nữa, tôi xuống xe đi bộ. Cuối cùng, tôi tìm thấy một lối mở cho mê cung
tôi vừa lạc vào, lối ấy dẫn tôi đến một đáy sông đầy cát, thiên đường của thằn
lằn, cóc, nhện, rắn và những loài gặm nhấm trên sa mạc. Đó cũng là mảnh đất lý
tưởng cho một con diều hâu.
Tôi đi bộ hàng giờ, luôn bị những cành cây gai góc mọc đầy ở hai
bờ phía trên đe dọa, mà chẳng thấy dấu vết của Chiến đâu. Dường như niềm hy
vọng muốn chơi trò đùa với mắt, tai và tâm trí con người. Phải thú nhận rằng có
những lúc tiếng lá cây sột soạt, những lùm tầm gửi đu đưa trên những nhánh cao,
và bóng của những thân cây xương xẩu nối tiếp nhau đã làm loé lên trong tôi hy
vọng mãnh liệt được trông thấy Chiến, nhưng các tia hy vọng đó đã tắt ngấm chỉ
một giây sau đó. Niềm hy vọng ấy hình như quá mong manh!
Trời càng lúc càng lạnh hơn, tôi có cảm giác mình đang bị ai
nhìn. Thật bất ngờ, tôi đang nhìn thẳng vào đôi mắt của một con diều hâu đuôi
đỏ cái. Đậu trên một cành cây cách đó không xa, nó ngụy trang mình một cách
hoàn hảo bằng những tán lá thu xung quanh.
Liệu đây có phải là người bạn đời của Chiến không
nhỉ? tôi tự hỏi. Tôi rất muốn tin như thế, để tôi có thể kể cho
Scott nghe rằng tôi đã thấy con chim cái đó chăm sóc người bạn đời của mình,
kiếm thức ăn và bảo vệ con đực. Nhưng làm sao tôi có thể chắc như vậy?
Nhưng sau đó tôi đã nhìn thấy Chiến!
Trên một nhánh cây thấp, bên dưới cái bóng tối đặc của con chim
mái to lớn, một con diều hâu gầy ốm đến tả tơi đang nằm gập cong mình. Khi
trông thấy cái cánh cong oằn lại của nó, cái đầu hói tự cao và chiếc móng đã
héo khô, nước mắt tôi ràn rụa. Giây phút ấy mới tuyệt làm sao: một thời khắc
phản chiếu sức mạnh của niềm hy vọng. Một thời điểm để cầu nguyện cho cậu bé
cầm khẩu súng ngày nào. Một thời điểm ban phước lành cho chàng trai trẻ đã giữ
vững niềm tin.
Một mình ở một nơi hoang sơ như thế này, tôi đã biết được sức
mạnh của lòng tin, vì tôi đã chứng kiến một phép màu.
- Chiến - tôi thì thầm, ao ước được chạm vào bộ lông đã thô ráp
của nó, nhưng tôi chỉ dám đi quanh nó - Có phải là mày thật đấy không?
Tôi đã nhận được câu trả lời trong im lặng khi đôi mắt màu vàng
kia dõi theo những bước chân của tôi cho đến khi nó ngoặt cả đầu lại nhìn tôi
như ngày nào. Những tia sáng cuối cùng trong ngày đang nhảy múa trên cọng lông
đuôi đỏ của nó.
Cuối cùng, tôi đã biết được và hơn ai hết, con trai tôi cũng sẽ
biết: sự cố gắng của chúng tôi hoàn toàn xứng đáng.
Chương 15: Không bao giờ bỏ cuộc
Cơ hội thường ẩn nấp sau cảnh cửa bất hạnh hay thất bại trước
mắt.
- Napoleon Hill
Phim chụp cho thấy anh phải ngồi xe lăn, Jason - người bác sĩ
nói bằng giọng nghề nghiệp dành cho những bệnh nhân mắc bệnh nan y. Thị lực và
ngay cả bằng quang của anh có thể không kiểm soát được.
Những lời đó như gáo nước lạnh dội vào vợ chồng tôi. Lúc ấy tôi
27 tuổi và mắc phải căn bệnh đa xơ cứng. Tôi đã muốn xua đuổi tin xấu đó, nhưng
tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là biến khỏi phòng mạch ngay lập tức. Người
bác sĩ này không hé mở tia hy vọng nào cả và còn đang làm chúng tôi sợ hãi. Tôi
liếc trộm Tracy ngồi bên đang bắt đầu thút thít. Tôi quàng tay qua an ủi nàng.
Chúng tôi lí nhí chào bác sĩ rồi vội vã ra về.
Tôi làm trong ngành xây dựng cùng với bố tôi, người sở hữu công
ty. Công việc của chúng tôi là xây dựng những tòa nhà, khá vất vả nhưng tôi rất
yêu thích nó. Tôi đã từng đi trên những thanh thép mỏng hồi mới 14 tuổi và có
lẽ ở tại công trình xây dựng tôi cảm thấy thân thuộc như ở nhà mình. Cha đã dạy
tôi tất cả những cách thức làm việc.
Giờ đây, tôi không thể chịu nổi ý nghĩ làm ông phải thất vọng.
Sau khi đưa Tracy về nhà, tôi nói rằng có việc phải ghé qua văn
phòng, nhưng thật ra tôi muốn đến một nơi mà tôi biết từ rất lâu rồi.
Tôi ngồi trên chiếc ghế dài của nhà thờ, cảm nhận những kỷ niệm
ngọt ngào của thời thơ ấu ùa về. Tôi nhắm nghiền mắt khi thốt lên lời cầu
nguyện trong lo lắng: "Lạy Chúa, con không lo gì cho mình, nhưng con sợ sẽ
làm vợ và gia đình con thất vọng. Họ tin tưởng vào con rất nhiều. Con cầu xin
Người hãy giúp con vượt qua thử thách này", tôi thì thầm.
Tôi đứng dậy ra về, trong lòng hy vọng những lời nguyện cầu của
mình sẽ được đáp lại. Nếu có lúc nào đó tôi phải giữ vững niềm tin, thì đó
chính là lúc này.
Vài tuần sau, báo địa phương đăng một mẩu tin thể thao về một
người đàn ông tên Pat. Điều này như một phép màu bé nhỏ đến với tôi. Pat là một
huấn luyện viên tại trường cao đẳng của tiểu bang, anh đã chiến thắng căn bệnh
đa xơ cứng bằng một chế độ ăn kiêng và tập luyện nghiêm ngặt.
Cuối cùng tôi cùng đã tìm được người đồng cảnh ngộ, cùng căn
bệnh và có lẽ cùng chung những nỗi hồ nghi và sợ hãi như tôi. Pat và tôi đã gặp
nhau, trò chuyện hàng giờ về những thứ thực phẩm bổ sung, vitamin và chế độ
luyện tập. Nhưng có tám chữ vẫn văng vẳng trong đầu tôi là "Cậu làm được
mà, Jason. Đừng bỏ cuộc. "
Tôi bắt đầu chế độ ăn kiêng đặc biệt và tập những bài tập dành
riêng cho các bệnh nhân đa xơ cứng, và tôi bám chặt nó với niềm tin tràn đầy.
Cũng có nhiều ngày trôi qua một cách u ám. Đó là những ngày tôi
phải nhờ Tracy giúp tôi mặc quần áo. Trong những ngày ấy, Tracy rất tuyệt vời,
yêu thương và nâng đỡ tôi hết mực. Tôi thấy mình thật may mắn. Dần dần, bệnh
tật của tôi hồi phục rõ ràng. Có khi, những lời nói của người bác sĩ ngày nào
dường như xa thăm thắm.
Cuối cùng thì tôi đã cảm thấy sẵn sàng thiết lập một mục tiêu
cho mình.
Thử thách xuất hiện dưới hình thức rèn luyện thân thể. Hồi còn
học trung học và cao đẳng, tôi đã từng chơi đá bóng và cũng chẳng lạ gì với
phòng tập cử tạ. Tôi siêng năng luyện tập 6 ngày trong tuần với một huấn luyện
viên. Anh ta hướng dẫn tôi theo nhiều cách thức cử tạ khác nhau. Mục tiêu của
tôi là ra tranh giải trong một cuộc thi thể hình.
Vài tháng sau đó, bao công sức rèn luyện cuối cùng cũng đã đưa
tôi đến với một cuộc thi với phần trình diễn trong ba phút. Tôi nhận ra mình
đang đứng trước một khán phòng đông nghẹt người.
Tôi đã hoàn tất màn trình diễn của mình - gập cơ, duỗi cơ và phô
diễn hình thể mà tôi đã dày công khổ luyện mới đạt được - rồi đi ra. Trong khi
chờ ban giám khảo công bố điểm, tôi trông thấy gia đình cùng bạn bè đang ngồi ở
hàng ghế thứ 4. Khi các giám khảo thông báo tôi xếp thứ 6, lòng tôi trào dâng
niềm hãnh diện lẫn thư thái. Lúc cúi chào khán giả, tôi trộm liếc nhìn về phía
gia đình mình, tất cả họ đều đang đứng dậy vỗ tay hết mình chúc mừng tôi.
Trước khi chúng tôi đến một nhà hàng gần đó để ăn mừng, cha tôi
đến bên và đặt hai bàn tay lên vai tôi rồi nói:
- Jason, cha rất tự hào về con. Với cha, con là người giàu nghị
lực nhất.
Rồi cha nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Chúng ta xây dựng những nền tảng trong kinh doanh, nhưng cha
muốn nói với con rằng, những nền tảng thực sự của cuộc sống chính là gia đình.
Tôi ôm chặt cha và nhìn thấy Tracy đang ra dấu chúc mừng thành
công của tôi, nàng nở một nụ cười tươi và rạng rỡ.
Giờ đây, tôi và Tracy đã trở thành những người cha người mẹ đáng
tự hào của hai cô con gái nhỏ của chúng tôi. Chúng quỷ giá hơn nhiều so với
chúng tôi tưởng. Và mỗi ngày tôi đều nhớ đến lời cha: "Nen tảng thật sự
của cuộc đời chính là gia đình".
Đừng sợ thất bại. Lần thất bại thứ nhất cần phải có vì nhờ đó mà
ý chỉ ta thêm vững vàng. Lần thứ hai có thể hữu ích. Nếu đến that bại lần thứ
ba mà ta vẫn đứng vững thì ta thật sự là một con người.
- René Bazin
Chương 16: Hai anh em
Người ta không yêu kẻ khác bởi người đó là ai, mà chính bởi bản
lĩnh và những gì ta cảm nhận được từ họ.
- Khuyết danh
Ngày xưa, ở một vùng đất xa xôi nọ, có hai anh em trẻ tuổi đáng
yêu. Họ cũng giống như bất kỳ chàng trai trẻ nào mà bạn có thể bắt gặp hôm nay.
Tuy nhiên, tính khí của hai anh em lại rất ngỗ nghịch. Và mọi
việc trở nên nghiêm trọng khi hai người bắt đầu đi trộm cừu của nông dân trong
vùng - một hành vi bị coi là trọng tội. Một lần nọ, cả hai anh em bị bắt quả
tang. Dân làng quyết định trừng phạt họ bằng cách thích lên trán họ chữ 'ST'
(tên trộm cừu) như một dấu ấn tội lỗi sẽ theo họ mãi mãi.
Một trong hai anh em họ vì quá xấu hổ nên đã bỏ đi biệt xứ. Kể
từ đó, chẳng còn ai biết được tin tức gì về anh ta.
Còn người thứ hai, vô cùng ân hận, đã ở lại làng và cố gắng hết
sức để bù đắp lại những lỗi lầm của mình. Lúc đầu, mọi người đều e dè và chẳng
muốn dính líu gì với anh ta. Tuy nhiên, anh vẫn quyết tâm hoán cải.
Hễ trong làng có ai đau yếu anh đều tìm đến ân cần chăm sóc và
lo lắng. Bất cứ ai có việc gì nặng nhọc, anh đều tới giúp đỡ hết mình, chẳng
cần biết đó là ai, giàu hay nghèo. Cứ như thế, anh luôn sống vì người khác mà
chẳng hề đời ban thưởng hay trả công.
Nhiều năm trôi qua, một bữa nọ có một vị khách bộ hành đi ngang
qua ngôi làng. Trong lúc ngồi ở quán nước bên đường, ông trông thấy một lão
ông, trên trán có khắc một dấu khác lạ ngồi gần đó. Bất kỳ ai trong làng đi
ngang qua cũng đều dừng lại kính cẩn chào hỏi cụ; đám trẻ con chơi xong cũng
chạy đến sà vào lòng cụ. Tất cả mọi người đều kính trọng ông lão.
Thấy ngạc nhiên, người khách lạ hỏi thăm vị chủ quán:
- Hai kỷ tự trên trán ông cụ có nghĩa là gì thế?
- Tôi cũng không rõ nữa. Chuyện xảy ra cách đây đã lâu lắm rồi -
Người chủ quán đáp. Sau đó, ông ngừng lại suy nghĩ một chút rồi nói - nhưng
theo tôi chắc nó có nghĩa là 'thánh nhân'.
(ND: trong truyện này, tác giả đã dùng lối chơi chữ.
"ST" vừa là hai ký tự đầu của từ "sheep thief" - tên trộm
cừu - vừa là cách viết tắt của "saint" - thánh nhân. )
Chương 17: Giấc mơ hão huyền
Hãy vững tin với những giấc mơ và sống với những gì bạn mơ ước.
- Henry David Thoreau
Lần đầu tiên tôi gặp cô George, giáo viên của trường trung học
Dr. J. p. Lord, trong một căn phòng nhỏ chỉ vừa cho một học sinh và một giáo
viên.
Căn phòng này sau đó được chuyển thành lớp học cho bốn đứa chúng
tôi, trong đó hết ba đứa phải ngồi xe lăn và một đứa chống gậy. Mỗi đứa ngồi xe
lăn có một câu chuyện khác nhau, đứa bị thương do đạn bắn vào đầu, đứa bị teo
cơ và đứa bị bại não. Cậu học sinh còn lại thì bị mù, phải đi bằng gậy.
Tôi chính là người bị bại não. Khi tôi cố gắng phát âm, cô
George đã chọc tôi rằng giọng tôi giống như giọng con hươu đực ở Bắc Mỹ đang
gọi người yêu.
Nhu cầu về học tập và tình cảm của mỗi chúng tôi cũng khác nhau,
có người chuẩn bị để vào đại học, có
người chuẩn bị cho cái chết sắp đến. Cô George đã làm mọi thứ để
giúp đỡ bọn tôi, lớp đầu tiên của trường trung học Dr. J. P. Lord này.
Cô George khoảng 50 tuổi, chỉ cao hơn một mét rưỡi một chút và
mái tóc cô đã điểm sương (đến cuối năm học mái tóc đó càng bạc thêm); da cô hơi
ngăm và giọng nói rất trong. Cô có tật nói rất nhanh, lúc nào cũng kết thúc
những lời giải thích của mình bằng câu: "Các em có hiểu không?".
Ngày đầu tiên chúng tôi đến trường, cô đón chúng tôi bằng đôi
môi tươi thắm:
- Chào các em! Căn phòng này có lẽ hơi chật nhưng không sao, mọi
việc sẽ ổn thôi. Đây là ngôi trường đầu tiên dành cho những học sinh đặc biệt
như thế này ở Nebraska, và chúng ta là những người tiên phong. Mà người đi đầu
thì thường gặp chút khó khăn, phải không các em? Cô nghĩ rằng các em đã biết
nhau hết rồi, ngoài Bill và David. Để cô giới thiệu, David, đây là Bill. Bạn
này bị bệnh bại não. Bạn ấy đã rồi trường cũng khoảng bằng lúc em đến vì trước
kia trường này không có hệ trung học. Còn David đến từ đảo Hawaii và bị bệnh
loạn dưỡng cơ bắp. David sẽ tròn 19 tuổi vào ngày 6 tháng 5 này. Chúng ta sẽ có
một buổi tiệc sinh nhật với những cô vũ công thật đẹp.
Tôi đã tự hỏi không biết cô George có biết gì về căn bệnh của
David không. David sẽ không sống nổi đến ngày sinh nhật của cậu ấy đâu. Bệnh
của cậu đã ảnh
hưởng đến phổi rồi nên việc thở sẽ rất khó khăn...
- Bây giờ các em hãy làm quen với nhau đi.
- Cô hy vọng vào các em rất nhiều, các em có hiểu không? - Cô
giáo mới lý tưởng của chúng tôi đã nói như thế.
Một bữa nọ, cô George đến chỗ tôi lúc tôi đang làm bài tập phần
chia những loại đá cho môn địa chất học. Cô ngồi xuống cạnh tôi và nói:
- Cô nghe nói em đã từng theo học khóa học từ xa ở trường
Nebraska tại Lincoln cách đây ba năm nhưng vẫn chưa tốt nghiệp, đúng không? Cô
biết mấy khóa học đó khá khó và tốn rất nhiều thời gian. Nhưng cô sẽ giúp em
tốt nghiệp vào mùa xuân sang năm. Trưa nay em ăn cơm với cô nhé? Cô biết em rất
mong được tốt nghiệp, nhưng không biết làm cách nào, phải không? Em có muốn hỏi
cô thêm điều gì không?
- Em nghĩ chắc David năm nay không thể tổ chức sinh nhật được
đâu. Phổi của bạn ấy yếu quá rồi. Mùa đông năm nay có lẽ còn lạnh hơn mấy năm
trước nữa. -Tôi nói chậm rãi từng chữ một bằng bảng chữ của tôi và một cây viết
được gắn vào đầu, đại loại như một loại que đeo trên đầu.
- Chúng ta đều biết điều đó. Nhưng David không biết đâu. Giống
như em mong nhận được tấm bằng tốt nghiệp, David cũng hy vọng được cắt bánh
sinh nhật lần thứ 19 của mình vậy.
Cô George nói đúng. Tôi đã hoàn tất những khóa học của mình và
bắt đầu những khóa mới với một tốc độ đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên, sức khỏe của
David ngày càng tệ hơn trong suốt kỳ nghỉ lễ. Cậu ấy luôn e ngại khi phải đi
ngủ vào buổi tối vì sợ rằng sẽ chẳng bao giờ thức dậy vào sáng hôm sau nữa. Thế
là cô George cho phép cậu ngủ trong lớp học:
- Có một cái bệnh viện bên kia đường, chúng ta chỉ mất 5 phút để
qua bên đó. Em cứ yên tâm đi David, ở đây an toàn hơn bất cứ nơi nào khác.
Một lần khi David bị khó thở, cô George đã xoa bóp lồng ngực cho
cậu ấy suốt cả buổi chiều. Cô bảo với người giúp tập vật lý trị liệu đang đứng
kế bên cầm bình oxy rằng:
- David đang giúp tôi luyện tập tay cho rắn chắc để chơi tennis
đấy. Nếu anh thấy người phụ nữ nào cao khoảng một mét rưỡi với cánh tay nổi cơ
bắp trên sân tennis thì đó chính là tôi đấy! Một bài tập tuyệt vời, anh có hiểu
không?
Một ngày kia khi chúng tôi đang thảo luận về một vài đề tài chán
ngắt trong môn học lịch sử thế giới của tôi thì cô George nói:
- Lúc cô dạy mấy cậu học sinh kia, cô không thể xem chừng David
được. Em xem chừng David dùm cô nhé, Bill? Nếu cậu ấy có vấn đề gì, em cứ gọi
cô bằng cái giọng hươu đực của em nhé. Trông cậu ấy không được khỏe lắm. Nhưng
chúng ta sẽ giữ cậu ấy ở lại đây đến khi nào còn có thể. ít ra thì mẹ cậu ấy
không phải trông chừng cậu nếu cậu ở trường lúc này. Bây giờ chúng ta phải làm
sao để kết thúc môn lịch sử khó ưa này trong tháng ba, nếu may mắn. Đây là một
môn học khô khan nhưng cô sẽ cố làm cho các em hiểu bài.
Thông thường, khi phải cố hít thở không khí, David thường nhìn
tôi và nói:
- Tớ không sao đâu, Bill. Không sao đâu mà! Cám ơn cậu vì đã
trông chừng tớ nhé!
May mắn thay, cái giọng hươu đực của tôi chưa bao giờ phải cất
lên cả, mà tôi còn học hỏi được nhiều điều từ việc canh chừng David. Tôi đã
nhận ra lòng khát khao được sống của David. Nhìn cậu ấy chống chọi để giành lấy
từng hơi thở, bỗng nhiên tôi cảm nhận được hết giá trị của sự sống. Và khi tôi
phải học những môn học nào khó nuốt, tôi chẳng hề thấy phiền lòng nữa, bởi vì
ít nhất tôi còn may mắn được học tập và nghiên cứu mà không phải lo lắng gì về
hơi thở của mình. Tôi nghĩ rằng đấy là bài học mà cô George muốn dạy cho tôi
bằng cách nhờ tôi trông chừng David.
Ngày 10 tháng 4 năm ấy là ngày cuối cùng của David ở trường. Tối
hôm đó bệnh tình David trở nặng. Cậu được chở đi cấp cứu để nhờ những cái máy
hô hấp nhân tạo duy trì cuộc sống cho mình.
Đến ngày 15 tháng 4 năm 1975, tôi định đi thăm David sau khi tan
học. Nhưng buổi sáng hôm ấy, tôi nhận được một mảnh giấy viết tay bên chiếc máy
đánh chữ của tôi. "Tối nay đừng đến bệnh viện nữa. David đã mất khi cậu ấy
đang ngủ. Cô không muốn báo cho các em khác biết vì hôm nay trường ta sẽ đi xem
xiếc. Không có lý do gì để làm hỏng cuộc vui này của mọi người. Chúng ta sẽ
cùng nhau đi viếng David sau đó. J. George. "
Dù cô George đã không biến giấc mơ về một buổi tiệc sinh nhật
tuổi 19 của David thành sự thật (có Thượng Đế làm chứng rằng cô đã cố gắng hết
sức), nhưng cô cũng giúp tôi đạt được ước mơ tốt nghiệp trung học.
Vào một buổi tối tháng năm ấm áp năm 1976, khi tôi ngồi trên
khán đài lắng nghe bài hát "Giấc mơ hão huyền" trong buổi lễ phát
bằng, những ca từ của bài hát dường như rat hợp với người phụ nữ mặc bộ áo vàng
đang hãnh diện nhìn tôi đón nhận tấm bằng tốt nghiệp. Bởi vì cô đã mơ một giấc
mơ hão huyền và đã biến nó thành sự thật.
Chương 18: Bài học từ một chuyến đi
Tôi sinh ra và lớn lên trong cộng đồng người Estepona thuộc miền
Nam Tây Ban Nha. Một buổi sáng khi tôi 16 tuổi, cha nhờ tôi lái xe đưa ông đến
ngôi làng Mijas cách đó khoảng 18 dặm, với điều kiện tôi phải đưa xe đi tu sửa
tại một gara gần đó. Vừa mới biết lái lại ít khi được chạy xe nên tôi vui vẻ
đồng ý ngay. Tôi đưa cha đến làng Mijas, hứa sẽ quay lại đón ông vào 4 giờ
chiều, rồi lái xe đến gara và để lại đó.
Được tự do đến chiều, tôi quyết định đi xem vài bộ phim tại một
rạp chiếu bóng cách đó không xa. Những thước phim hấp dẫn đã cuốn hút tôi đến
nỗi tôi quên cả thời gian. Khi bộ phim sau cùng kết thúc, tôi mới giật mình
nhìn xuống đồng hồ. Sáu giờ tối! Tôi đã trễ hẹn với cha cả hai tiếng đồng hồ!
Chắc cha sẽ giận lắm nếu biết tôi đã đi coi phim! ông sẽ không
bao giờ cho tôi đi xe nữa. Tôi quyết định sẽ lấy lý do là chiếc xe cần sửa thêm
vài thứ nên đã tốn nhiều thời gian hơn. Tôi đến gara lấy xe rồi chạy đến nơi
hẹn gặp cha. Ông đang đứng kiên nhẫn đợi tôi tại góc đường. Tôi xin lỗi và bào
chữa cho mình bằng lý do như đã sắp đặt. Cha nhìn tôi bằng một ánh mắt mà có lẽ
sẽ chẳng bao giờ tôi quên!
- Ba thất vọng vì con đã dối ba, Jason ạ!
- Ba nói gì cơ? Con nói thiệt mà ba.
Cha nhìn tôi:
- Khi thấy con đến muộn, ba đã gọi điện cho gara để hỏi xem có
chuyện gì không, họ bảo với ba là con chưa tới lấy xe. Vậy là chiếc xe không bị
trục trặc gì cả, đúng không?
Một cảm giác tội lỗi vây bủa quanh tôi, tôi lí nhí thú nhận với
cha là đã đi đến rạp chiếu bóng. Cha lắng nghe, gương mặt hiện lên vẻ buồn bã.
- Ba không giận con mà giận chính bản thân mình. Ba đã không làm
tròn bổn phận của một người cha, khi sau từng ấy năm con vẫn cảm thấy rằng con
cần phải nói dối ba. Ba đã thất bại! Bây giờ ba sẽ đi bộ về nhà và suy nghĩ xem
mình đã làm gì không đúng trong suốt bao nhiêu năm qua.
- Nhưng từ đây về nhà đến 18 dặm lận. Trời đã tối rồi. Ba không
thể làm như vậy được!
Mặc cho tôi can ngăn, xin lỗi và nói gì đi nữa, cha vẫn không hề
lay chuyển. Tôi đành phải để cha xuống xe và đón nhận một bài học đau đớn trong
đời. Cha bắt đầu đi dọc theo con đường đầy bụi. Tôi nhảy vội lên xe và lái theo
sau, hy vọng cha sẽ nghĩ lại. Những lời biện hộ, ăn năn của tôi suốt dọc đường
như chẳng hề lọt vào tai cha, ông cứ phớt lờ, im lặng và trầm ngâm buồn bã. Tôi
đã lái xe theo sau cha đến hết quãng đường.
Nhìn cha tự dày vò về thể xác lẫn tinh thần, lòng tôi đau đớn vô
hạn. Nhưng đó cũng là bài học thành công nhất của cha tôi: tôi không bao giờ
nói dối cha nữa.
87 năm sổng ở trên đời, tôi đã chứng kiến toàn bộ cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật. Nhưng không có thành tựu khoa học nào lại thay thế được tính
cách và khả năng suy nghĩ của mỗi cả nhân.
- Bernard M. Baruch
Chương 19: Quà tặng dành cho trái tim tan vỡ
Những lời tử tế có thể ngắn ngủi và dễ nói, nhưng tiếng vang của
chúng quả thực là vô tận.
- Mẹ Theresa
Đi học về, bé Sussie 6 tuổi thấy mẹ đang bận rộn trong bếp, em
lại gần và hỏi:
- Con chào mẹ, mẹ đang làm gì đó?
- Mẹ đang làm món thịt hầm cho bác Smith hàng xóm của chúng ta -
mẹ cô bé trả lời.
- Nhưng sao mẹ phải làm vậy? Sussie lại hỏi.
- Vì bác Smith đang rất đau buồn; con gái bác vừa qua đời và giờ
đây trái tim của bác Smith đang tan vỡ đó con ạ! Chúng ta cần phải quan tâm đến
bác ấy một chút.
- Sao lại phải thế hả mẹ?
Mẹ Sussie dừng tay và ôn tồn nói với con:
- Như con thấy đó, Sussie, khi ai đó đang đau buồn, đang rất đau
buồn, họ sẽ không tha thiết đến bất kỳ chuyện gì nữa, ngay cả những công việc
hàng ngày như nấu bữa tối hay những việc lặt vặt khác. Vì chúng ta đang sống
chung với nhau trong một cộng đồng. Vả lại, bác Smith còn là hàng xóm của nhà
mình nữa nên chúng ta lại càng phải làm gì đó để giúp bác ấy. Bác Smith sẽ
chẳng bao giờ còn có thể nói chuyện với con gái mình được nữa; bác ấy sẽ chẳng
còn có thể ôm con gái vào lòng và cũng không thể cùng con gái mình làm những
công việc tuyệt vời khác như bao bà mẹ và các con gái của họ thường cùng làm
với nhau. Con là đứa trẻ thông minh mà, đúng không Sussie? Có lẽ con sẽ nghĩ ra
cách nào đó để tỏ lòng quan tâm đến bác Smith được không?
Sussie suy nghĩ rất nhiều về lời mẹ nói và cô bé cố gắng nghĩ
cách giúp bác Smith. Vài phút sau, Sussie đến gõ cửa nhà bác.
- Chào cháu, Sussie! bác Smith khẽ nói khi ra mở cửa cho Sussie.
Sussie nhận thấy rằng giọng nói của bác Smith không vang lên
những âm điệu quen thuộc như em vẫn thường nghe thấy trước kia khi bác ấy lên
tiếng chào ai đó. Sussie còn thấy mắt bác Smith đỏ mọng và sưng lên, chắc chắn
bác ấy phải khóc nhiều lắm.
- Có chuyện gì không vậy Sussie? bác Smith hỏi.
- Mẹ cháu nói rằng con gái bác vừa mất và bác đang rất, rất đau
buồn với trái tim tan vỡ - Sussie ngập ngừng xòe bàn tay ra. Trên tay em là một
miếng băng dán vết thương - Cháu nghĩ cái này sẽ có ích cho trái tim tan vỡ của
bác.
Bà Smith sững người và cảm động đến trào nước mắt. Bà ngồi
xuống, ôm chặt bé Sussie vào lòng. Qua làn nước mắt bà nói:
- Cám ơn cháu. Bác rất cảm ơn cháu. Món quà này của cháu sẽ giúp
cho bác nhiều lắm.
Bà Smith đón nhận cử chỉ nhân ái của Sussie và không chỉ đơn
thuần đón nhận, bà còn tỏ ra rất trân trọng tặng vật chia sẻ nỗi buồn của em.
Bà mua một dây đeo chìa khóa nhỏ có gắn một khung ảnh bằng thủy tinh - một vật
dụng quen thuộc bấy giờ vừa dùng để treo chìa khóa vừa để đặt ảnh người mình
quí mến trong gia đình vào đấy. Bà Smith đã đặt miếng băng dán vết thương của
Sussie vào trong khung ảnh để mỗi lần nhìn thấy nó, bà như được nhắc rằng hãy
gắng sức chữa lành vết thương lòng của mình. Bà cũng hiểu rõ ràng để làm được
việc này phải cần có thời gian và được nâng đỡ vẻ mặt tinh thần. Và miếng băng
dán của bé Sussie gửi cho bà đã trở thành một biểu tượng giúp bà voi đi nỗi
buồn đau, trong khi không quên đi những niềm vui và tình yêu mà bà đã từng chia
sẻ với con gái mình.
Chương 20: Niềm tin
Hy vọng là cội nguồn của niềm tin
- Cyrus Augustus Bartol
Cách đây vài năm, một giáo viên phổ thông được thuê để dạy riêng
cho những học sinh phải nằm viện. Nhiệm vụ của cô là kèm cặp cho các em khỏi
mất bài, để có thể theo kịp chúng bạn khi xuất viện.
Ngày nọ, một cú điện giao việc gọi tới. Như thường lệ, cô ghi
lại tên học sinh, địa chỉ bệnh viện, số phòng và nghe giáo viên đầu dây bên kia
dặn dò:
- Hiện lớp chúng tôi đang học bài Danh từ và Trạng từ. Tôi rất
biết ơn nếu cô kèm em làm hết bài tập về nhà để đừng bị bỏ xa quá.
Mãi tới lúc đứng trước cửa phòng cậu bé, cô giáo mới biết em
thuộc khoa phỏng của bệnh viện. Không ai báo trước cho cô biết điều gì đang chờ
mình đằng sau cánh cửa đóng im ỉm, chỉ thấy người ta bắt cô phải mặc áo choàng
và đội mũ kín mít để phòng tránh vi trùng. Y tá còn dặn dò cô đừng chạm vào
người hay giường của bệnh nhân, chỉ được đứng gần và nói qua chiếc mặt nạ.
Chuẩn bị xong xuôi, cuối cùng cô hít
một hơi thật sâu rồi hồi hộp bước vào. Toàn thân cậu bé lở loét
khủng khiếp, lộ vẻ đau đớn thảm khốc. Cô giáo kinh sợ đến nỗi không thốt nên lời,
nhưng đã quá muộn để quay lại và bỏ chạy, cố gắng mãi cô cũng mấp máy được vài
lời:
- Cô là giáo viên biệt phái của bệnh viện, cô giáo của em nhờ cô
tới giúp em học bài Danh từ và Trạng từ.
Cô cảm tưởng như hôm đó là một trong những buổi dạy tệ nhất trong
đời mình.
Sáng hôm sau cô quay lại. Một chị y tá hỏi:
- Cô đã làm gì với cậu bé tội nghiệp đó vậy? - Rồi không để cô
kịp thanh minh hay xin lỗi, chị tuôn luôn một tràng - Cô không hiểu hết đâu,
chúng tôi đang lo sốt vó lên vì cậu bé, nhưng sau buổi học hôm qua thì thái độ
của em thay đổi hoàn toàn. Em đã chịu tuân theo sự chữa trị của bác sĩ, không
nối loạn nữa và có vẻ muốn sống.
Sau này chính cậu bé ấy giải thích rằng trước khi gặp cô giáo
cậu đã tuyệt vọng ghê gom, chỉ ước được chết thôi. Mọi biến chuyển đều bén rễ
từ một nhận thức vô cùng đơn giản: Niềm tin vào cuộc sống. Với những giọt nước
mắt sung sương nhạt nhòa trên má, cậu bé bị phỏng nặng đến nỗi mất hết cả nghị
lực ấy lý giải như thế này:
- Có bao giờ người ta phái cô giáo đến dạy Danh từ và Trạng từ
cho một cậu bé đang hấp hối đâu, phải không nào?
Chương 21: Bỏ qua oán hờn
Ghim giữ nỗi đau hay là phóng thích nó bằng sự tha thứ? Hai điều
ẩy khác nhau như là: ban đêm ta nằm ngủ trên chiếc gối chỉa đầy gai nhọn hay
trên chiếc gối phủ đầy những cảnh hồng.
- Loren Fischer
Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ có hai người con trai
sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình. Khi ông qua
đời, họ thay ông trông coi cửa hàng đó. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày
kia, khi một tờ giấy bạc biến mất. Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm
tiền rồi đi ra ngoài với khách hàng. Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất.
Người em hỏi người anh:
- Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không?
- Không - người anh đáp.
Tuy thế, người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi.
- Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng
dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó!
Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng
bắt đầu tăng lên giữa hai anh em họ. Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào.
Không lâu sau, một hố ngăn cách gay gắt và sâu thắm đã chia cách hai chàng trai
trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào. Cuối cùng họ quyết định không làm
chung với nhau và một bức tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng. Sự
thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình
của họ. Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước cửa hàng. Ông ta bước
vào và hỏi người bán hàng:
- Anh đã ở đây bao lâu rồi?
Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói
tiếp:
- Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đang đi xe lửa
và tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến
đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình
rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải
là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi.
Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn
trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này.
- ông có vui lòng sang cửa hàng bên và kể lại chuyện này cho
người đàn ông trong cửa hàng đó được không? - anh ta đề nghị.
Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn
ông trung niên, trông rất giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20
năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ
đã được đập bỏ.
Trong cuộc sống có những điều nhỏ nhặt vẫn thường xảy ra và vô
tình chia cắt con người với nhau - những lời nói vội vàng không suy nghĩ, những
lời chỉ trích, buộc tội, hay những lời trách cứ oán hờn. Và khi đã bị chia cắt,
họ có thể không bao giờ quay lại với nhau được nữa. Phương cách tốt nhất để
tránh những tình huống gây tổn thương này là bỏ qua những lỗi lầm nhỏ của nhau.
Điều này không dễ dàng nhưng cũng chẳng phải là quá khó khăn. Bỏ đi những bực
dọc rồi bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi thấy mình chẳng mất bao nhiêu năng lượng
để xây dựng sự gắn bó với những người bạn yêu mến.
Chương 22: Mẹ và cuộc hành trình của bạn
Khi bạn bưởc chân vào thế giới này, mẹ đã ôm bạn trong tay. Bạn
cảm ơn mẹ bằng cách khóc như một nữ thần báo tử.
Khi bạn 1 tuổi, mẹ đút từng miếng ăn và chăm sóc cho bạn. Bạn
cám ơn mẹ bằng cách khóc suốt đêm dài.
Khi bạn 2 tuổi, mẹ tập cho bạn đi. Bạn cám ơn mẹ bằng cách bỏ
chạy đi khi mẹ gọi.
Khi bạn 3 tuổi, mẹ làm cho bạn tất cả những bữa ăn với tình yêu.
Bạn cám ơn mẹ bằng cách quăng đĩa xuống sàn.
Khi bạn 4 tuổi, mẹ cho bạn một vài cây bút màu. Bạn cám ơn mẹ
bằng cách dùng chúng tô lên bàn ăn.
Khi bạn 5 tuổi, mẹ diện cho bạn vào những ngày lễ. Bạn cám ơn mẹ
bằng cách ngã ùm vào đống bùn gần nhất.
Khi bạn 6 tuổi, mẹ dắt tay bạn đến trường. Bạn cám ơn mẹ bằng
cách la lên: "Con không đi".
Khi bạn 7 tuổi, mẹ mua cho bạn một quả bóng. Bạn cám ơn mẹ bằng
cách ném nó qua cửa sổ nhà bên cạnh.
Khi bạn 8 tuổi, mẹ cho bạn một cây kem. Bạn cám ơn mẹ bằng cách
để nó chảy cả vào lòng bàn tay.
Khi bạn 9 tuổi, mẹ cho bạn đi học piano. Bạn cám ơn mẹ bằng cách
chẳng bao giờ ngó ngàng đến việc thực hành.
Khi bạn 10 tuổi, mẹ làm tài xế cho bạn suốt ngày, từ đi chơi
bóng đá đến tập thể dục rồi hết tiệc sinh nhật này đến sinh nhật khác. Bạn cám
ơn mẹ bằng cách khi đến nơi nhảy ra khỏi xe và chẳng hề quay lại.
Khi bạn 11 tuổi, mẹ dẫn bạn cùng bạn bè của bạn đi xi- nê. Bạn
cám ơn mẹ bằng cách xin ngồi ở hàng ghế khác.
Khi bạn 12 tuổi, mẹ răn bạn không được xem những chương trình
tivi nào đó. Bạn cám ơn mẹ bằng cách đợi cho đến khi mẹ rồi khỏi nhà rồi bật
lên xem.
Khi bạn 13 tuổi, mẹ đề nghị bạn cắt tóc. Bạn cám ơn mẹ bằng cách
bảo rằng mẹ không biết thế nào là sành điệu.
Khi bạn 14 tuổi, mẹ cho bạn đi trại hè xa nhà một tháng. Bạn cám
ơn mẹ bằng cách quên chẳng viết lấy một lá thư.
Khi bạn 15 tuổi, mẹ đi làm về và chờ đợi sự chào đón của bạn.
Bạn cám ơn mẹ bằng cách khóa cửa phòng ngủ.
Khi bạn 16 tuổi, mẹ dạy bạn lái chiếc xe của mẹ. Bạn cám ơn mẹ
bằng cách lấy nó chạy bất cứ khi nào có thể.
Khi bạn 17 tuổi, mẹ đang đợi một cuộc gọi quan trọng. Bạn cám ơn
mẹ bằng cách tán dóc trên điện thoại đến giữa đêm.
Khi bạn 18 tuổi, mẹ đã khóc trong ngày lễ tốt nghiệp của bạn.
Bạn cám ơn mẹ bằng cách đi chơi với bạn bè đến chiều tối.
Khi bạn 19 tuổi, mẹ trả tiền học phí cho bạn, lái xe đưa bạn đến
trường đại học, mang túi xách cho bạn. Bạn cám ơn mẹ bằng cách tạm biệt mẹ bên
ngoài dãy phòng tập thể để khỏi lúng túng trước mặt bạn bè.
Khi bạn 20, mẹ hỏi bạn đã gặp gỡ ai chưa. Bạn cám ơn mẹ bằng
cách đáp: "Đó không phải là chuyện của mẹ. "
Khi bạn 21, mẹ đề nghị bạn những nghề nghiệp nào đó cho tương
lai, bạn cảm ơn mẹ bằng cách trả lời: "Con không muốn giống mẹ. "
Khi bạn 22, mẹ ôm bạn tại ngày lễ tốt nghiệp. Bạn cảm ơn mẹ bằng
cách hỏi xem mẹ có thể tặng bạn một chuyến du lịch châu u không.
Khi bạn 23, mẹ sắm sửa tất cả đồ đạc cho căn hộ đầu tiên của
bạn. Bạn cảm ơn mẹ bằng cách nói rằng những người bạn của mẹ thật xấu xí.
Khi bạn 24, mẹ gặp vị hôn phu của bạn và hỏi về những kế hoạch
tương lai của bạn. Bạn cảm ơn mẹ bằng cách giận dữ và càu nhàu: "Con xin
mẹ đấy!"
Khi bạn 25, mẹ lo lễ cưới cho bạn, mẹ khóc và bảo rằng mẹ yêu
bạn biết bao. Bạn cảm ơn mẹ bằng cách dọn đến sống ở một nơi xa tít.
Khi bạn 30, mẹ gọi bạn và khuyên bảo về việc chăm sóc trẻ con.
Bạn cảm ơn mẹ bằng cách bảo rằng: "Mọi việc giờ đã khác xưa rồi. "
Khi bạn 40, mẹ gọi để nhắc bạn nhớ sinh nhật của một người thân.
Bạn cảm ơn mẹ bằng câu trả lời: "Con thật sự bận mẹ ạ!"
Khi bạn 50, mẹ ngã bệnh và cần bạn chăm sóc. Bạn cảm ơn mẹ bằng
cách tìm đọc sách về đề tài "Cha mẹ trở thành gánh nặng cho con cái như
thế nào".
Và rồi, một ngày kia, mẹ lặng lẽ ra đi. Tất cả những điều bạn
chưa bao giờ làm sụp đổ tan tành. "Hãy ru con ngủ, ru con qua suốt đêm
dài. Bàn tay đưa nôi. .. có thể cai trị cả thế giới. "
Ta hãy dành một giây phút nào đó để báo hiếu và tỏ lòng kính
trọng với người ta gọi là Mẹ, dù rằng một số người có thể sẽ không nói điều đó
thẳng thắn với mẹ mình. Chẳng điều gì có thể thay thế mẹ được. Hãy trân trọng
từng giây phút, dầu rằng đôi khi mẹ không phải là người hiểu ta nhất trong
những người bạn của ta, có thể không đồng ý với những suy nghĩ của chúng ta,
nhưng người ấy vẫn là mẹ bạn!!!
Mẹ sẽ luôn ở bên bạn; lắng nghe những phiền muộn, niềm vui cũng
như những nỗi thất vọng của bạn. Hãy tự hỏi chính mình: "Mình có dành đủ
thời gian cho mẹ để lắng nghe những phiền muộn và buồn chán của người nội trợ
suốt ngày ở trong bếp không???"
Yêu thương và kính trọng mẹ, dù rằng bạn có thể có cách nhìn
khác với mẹ. Khi mẹ ra đi, những kỷ niệm yêu mến của quá khứ và cả nuối tiếc sẽ
ở lại.
Đừng xem những điều gần gũi nhất với trái tim bạn là hiển nhiên.
Yêu mẹ hơn bản thân mình, vì cuộc đời bạn sẽ vô nghĩa nếu không có Người.
Chương 23: Hồ nước
Một Ông chủ người Hindu lớn tuổi mệt mỏi vì người thợ học việc
cứ tối ngày phàn nàn nên một buổi sáng nọ ông bảo anh ta đi mua một ít muối.
Khi người thợ học việc quay về, người chủ bảo anh chàng kém vui vẻ này bỏ một
nhúm muối vào cốc nưởc rồi uống.
- Anh thấy thế nào? - Người chủ hỏi.
- Mặn lắm ạ - anh thợ thốt lên.
Người chủ tặc lưõi rồi sau đó bảo anh bỏ một nắm muối tương tự
vào trong hồ. Cả hai lặng lẽ đi đến hồ nước gần đó. Khi người thợ học việc
khuấy nắm muối vào nước hồ, ông chủ bảo anh:
- Giờ anh uống thử nước trong hồ xem sao.
Anh thợ làm theo lời ông.
- Thế nào? - Ông hỏi sau khi chàng trai đã uống xong một ngụm
nước hồ.
- Mát lắm ạ - chàng trai nhận xét.
- Thế anh có nếm thấy muối không?
- Không ạ!
Lúc này, người chủ ngồi bên cạnh chàng trai, nắm tay anh nói:
- Những phiền muộn trong cuộc sống là muối nguyên chất, không
hơn không kém. số lượng những nỗi muộn phiền trong cuộc sống chúng ta cũng vậy.
Tuy nhiên, số lượng những đắng cay chúng ta nếm tùy thuộc vào nơi mà chúng ta
đặt nỗi phiền muộn ấy vào. Thế nên khi nào anh đau khổ, điều duy nhất anh có
thể làm là mở rộng nhận thức của anh về sự việc...
Đừng làm cái cốc mà hãy trở thành hồ.
... Đừng tìm cách trở nên hoàn hảo. Bạn phải phạm lỗi nếu không
bạn sẽ chẳng bao giờ học được gì từ những lỗi lầm bạn đã mắc phải. Nếu bạn song
một cách hoàn hảo bạn sẽ thay chán ngắt. Nếu bạn luôn chán và ngày nào cũng làm
những điều giống nhau thì sống để làm gì? Hãy thử những điều bạn không nghĩ là
mình sẽ thích. Bạn sẽ không bao giờ biết cho đến khi đã thử qua...
(Khuyết danh)
Chương 24: Tình yêu vô điều kiện
Kho tàng kinh nghiệm của một người sẽ bớt đi tính phong phủ nếu
không có bất kỳ khó khăn nào để vượt qua.
- Helen Keller
Chắc mình bị hoa mắt! Tại sao lại như vậy được chứ?" - đầu
tôi quay cuồng với ý nghĩ này nhưng lại cố gắng che giấu cảm xúc về điều mà tôi
đã nhìn thấy khi đang ngồi bên giường Diane, vợ tôi. Nàng vừa sinh cháu thứ
hai, bé Sandra. Khuôn mặt Diane thật rạng rỡ khi nàng nằm trên giường trò chuyện
qua điện thoại với họ hàng thân thích. Nàng vẫn chưa trông thấy con gái mới
chào đời của chúng tôi. Nàng cũng không nhìn thấy đôi mắt thoáng hiện lo lắng
của cô y tá khi ẵm đứa bé ra khỏi phòng. Trưởc đó đâu có phải làm một xét
nghiệm nào! Cũng không một lời cảnh báo nào mà!
Tôi hoàn toàn tiêu tan mọi hy vọng khi bác sĩ bước vào phòng và
kéo ghế ngồi. Ông kiên nhẫn đợi đến khi Diane xong câu chuyện và gác điện thoại
rồi cất tiếng.
- Tôi rất lấy làm tiếc... nhưng con anh chị đã mắc hội chứng
Down.
Diane đón nhận cái tin ấy một cách bình tĩnh khiến tôi ngạc
nhiên. Nàng đã cưu mang đứa bé suốt chín tháng trời. Thậm chí trước khi được ôm
Sandra vào lòng, nàng cũng đã yêu thương con gái của chúng tôi bằng cả tấm
lòng. Còn tôi thì không thể như thế được. Tôi viện lý do và lẻn ra khỏi phòng.
Tôi đi loanh quanh trên các hành lang của bệnh viện nhiều giờ
liền, đấm tay vào tường và mắt tuôn trào những giọt lệ nhức nhối, đau đớn.
"Tại sao Người lại đối xử với con tôi như thế?", tôi đột nhiên oán
hờn Thượng Đế, "Tại sao lại là con gái tôi? Tại sao lại là tôi?"
Tại sao con gái Sandra của chúng tôi không được hoàn hảo - như
anh Aaron của nó chẳng hạn. Aaron đã lên ba và là viên ngọc quỷ của tôi. Tôi
thích cùng nó đi dạo dưới mưa và chỉ cho nó xem những loài sâu đêm, những con
ốc sên đang uốn mình trên các lối đi. Chúng tôi luôn có những buổi tối thứ sáu
vui vẻ với nhau khi hai cha con phải ở nhà một mình vì Diane đi làm về trễ và
phải ngủ lại nhà ông bà ngoại để sáng hôm sau đi làm cho đỡ nhọc. Chúng tôi
chơi với những con khủng long và xe điện nhựa. Rồi tôi đọc truyện cho con trai
bé bỏng của tôi nghe lúc nó lên giường ngủ.
Khi Aaron không muốn ngủ một mình, tôi ôm mền gối trải ra sàn
nằm ngủ cạnh giường con. Sáng hôm sau, thế nào tôi cũng sẽ thấy Aaron cũng đang
cuộn mình bên tôi dưới sàn nhà. Rồi cậu bé sẽ mở cặp mắt còn ngái ngủ và hỏi:
- Ba ơi, mình xem phim hoạt hình nhé?
- Tất nhiên rồi, con trai yêu quí của ba - tôi trả lời.
Với Sandra thì mọi việc hoàn toàn khác hắn. Sau khi chúng tôi
mang bé về nhà, tôi đã tức tốc chạy đến thư viện và đọc mọi thứ liên quan đến
bệnh Down. Tôi cố tìm một tia hy vọng mong manh nào đó. Nhưng càng đọc nhiều về
chứng bệnh này, tôi lại càng ngán ngẩm. Không có một phương thuốc nhiệm mầu nào
cho điều mà tôi gọi là 'bệnh của Sandra'. Khoảng thời gian đó, thậm chí tôi còn
không thể tự mình thốt ra ba chữ: 'Hội chứng Down' nữa.
Diane và tôi đăng ký vào một nhóm hỗ trợ những người có con bị
bệnh Down, nhưng sau một vài tuần tôi không muốn đến đó nữa. Nghe cha mẹ của
những trẻ bị hội chứng Down kể về những vấn đề liên quan đến sức khỏe xảy ra
với con họ, tôi vô cùng đau khổ. Tương lai của vợ chồng tôi cũng thế sao? Lúc
nào tôi cũng bị ám ảnh bởi câu hỏi này.
Quả thực, mới được sáu tháng tuổi, Sandra của chúng tôi đã phải
phẫu thuật tim. "Xin Thượng Đế đừng mang Sandra bé bỏng của con đi. "
Diane luôn miệng cầu nguyện. Còn tôi, tôi không có lòng dạ nào chia sẻ với
Diane lời nguyện cầu ấy.
Biết đâu như vậy lại tốt hơn cả, tôi thầm nghĩ, nhưng tôi không
cho phép mình suy diễn tiếp - tốt hơn cho ai đây?
Hết tuần này sang tháng khác, tôi đưa Sandra đi gặp nhiều bác sĩ
và các nhà trị liệu như bổn phận một người cha phải làm. Tôi xoa bóp chân và cố
gắng giúp các cơ của cháu tăng trưởng, tập cho cháu đi và nói. Nhưng càng cố
gắng, tôi càng thất vọng và buồn bã vì Sandra không khá hơn được chút nào.
Tôi dành trọn tâm huyết của mình để giúp cho con gái. Tôi quyết
tâm phải 'sửa chữa' Sandra cho bằng được, nhưng đó là tất cả ý nghĩa của những
việc mà tôi đã làm cho cháu - chỉ đơn thuần "sửa chữa". Tôi không yêu
thương con gái mình. Tôi chỉ bế cháu từ nôi ra để thay tã hoặc tập vài động tác
trị liệu cho nó. Chưa bao giờ tôi cười hoặc chơi trò "ú òa" với
Sandra.
- Anh không thương Sandra bằng Aaron - Diane nhận xét nhẹ nhàng
như thế vào một buổi chiều nọ.
Và tôi nghĩ rằng nàng nói đúng.
- Anh cần phải có thêm thời gian chứ - tôi chống chế một cách
yếu ớt.
Tôi hổ thẹn với những tình cảm của mình và, xin Chúa tha thứ
cho, tôi cũng hổ thẹn vì con gái Sandra của mình. Tôi đã lúng túng khi có ai đó
trông thấy tôi ôm con bé. Mọi người thường nựng nịu cháu bằng những câu đại
loại: "Ô, con bé dễ thương quá!" còn tôi thì chỉ muốn túm lấy cổ áo
họ và la lên rằng: "Đồ giả dối! Các người đang nghĩ trong bụng rằng con
tôi xấu xí chứ gì! Các người cho rằng chỗ của con tôi là phải ở trong bệnh viện
chứ không phải ở đây phải không?"
Rồi những cơn giận dữ ấy dâng thành nỗi buồn, và nỗi buồn dần
phôi phai thành thái độ hững hờ, xa cách. Ngay cả việc đi dạo hay chơi đùa cùng
Aaron cũng mất hứng thú bởi nó luôn nhắc tôi nhớ rằng con gái
Sandra của chúng tôi không bao giờ có thể làm được như thế.
Bị ràng buộc bởi bổn phận chăm sóc Sandra, tôi càng lúc càng trở
nên chán nản và cách biệt với con. "Ngày nào cũng như ngày nào, chẳng có
gì khác cả. Định mệnh đã bắt như vậy rồi, biết làm sao đây", tôi thở dài
ảo não khi đặt bé Sandra lúc này đã được hai tuổi vào chiếc ghế cao của bé để
ăn trưa. Tôi vừa múc thức ăn cho Sandra vào đĩa vừa quệt những giọt nước mắt
tuyệt vọng của mình. Bỗng dưng tôi thấy lòng mình trống rỗng.
Nhưng khi tôi đến gần chiếc ghế Sandra ngồi, bé bỗng nghiêng đầu
và mở to đôi mắt xanh biếc của cháu nhìn tôi chăm chú. Đột nhiên bé giơ hai
cánh tay nhỏ xíu ra ôm ghì tôi bằng tất cả sức mình như thay cho câu nói:
"Cha. ơi, cha đừng buồn nữa, con sẽ xua nỗi buồn đi cho cha. "
Tôi cũng vòng tay ôm chặt lấy cháu và tiếng khóc của tôi nghe
buồn thảm hơn. Nhưng lúc này đây, tôi khóc không phải vì nỗi buồn như bao ngày
qua nữa. Tôi khóc vì con gái bé bỏng của mình vừa chứng tỏ cho tôi hiểu được
tình yêu mà Sandra đã dành cho tôi, một tình yêu thương vô điều kiện, không đòi
hỏi gì ở người đối diện. Trong phút chốc, vai trò của chúng tôi bị đảo ngược.
Sandra đã trao cho tôi tình yêu thương mà bấy lâu nay tôi đã không thể dành cho
cháu.
Tôi đã đau khổ vì con gái tôi không được hoàn hảo. Nhưng tôi là
ai mà lại mong có được sự hoàn hảo khi tôi bấy lâu nay lại 'hư hỏng' như thế?
Tôi là ai mà lại khóc lóc cho sự đã rồi, thay vì chấp nhận và thương yêu con
gái tôi vì cháu là một người quá đặc biệt và sẽ mãi đặc biệt như thế?
Sandra đã dạy tôi cách mở rộng lòng mình và sẵn sàng cho đi tình
yêu của mình mà không đặt ra điều kiện nào. Tôi đã bỏ ra quá nhiều thời gian và
sức lực để chăm sóc Sandra, tôi đã làm tất cả mọi điều cần làm nhưng quên đi
một điều tối quan trọng: niềm vui thích khi ở bên cạnh cháu. Tôi quyết sẽ không
lặp lại lỗi lầm này lần nữa.
Giờ đây, mỗi tối tôi đều đọc truyện cho cả hai đứa con yêu dấu
của mình trước khi chúng đi ngủ. Mỗi sáng thứ bảy, ba cha con tôi lại cùng nhau
cuộn mình trên giường xem phim hoạt hình. Và hễ cứ mỗi khi tôi làm điệu bộ chọc
cười bé Sandra, hoặc cùng chơi bóng, chơi búp bê với cháu, tôi bất chợt nhận ra
rằng: bởi tôi đã hoàn toàn mở rộng lòng mình với Sandra nên mỗi ngày cháu lại
đong đầy vào đó bằng chính niềm vui và tình yêu thương của cháu...
Chương 25: Giá trị của lòng biết ơn
Hồi ấy tôi mới 13 tuổi và thường cứ mỗi thứ bảy là tôi lại được
bố dẫn đi chơi. Có lúc bố dẫn tôi ra công viên, có lúc lại đưa tôi ra bến cảng
ngắm nhìn những con tàu. Thế nhưng tôi thích nhất là được bố dẫn đến các cửa
hàng bán đồ cũ. Ớ đấy tôi tha hồ ngắm nghĩa và trầm trồ thưởng lãm các món đồ
điện tử cũ kỹ. Thỉnh thoảng bố cũng mua cho tôi một món gì đó giá 50 xu chỉ để
về nhà tháo tung nó ra.
Trên đường về nhà sau những chuyến đi chơi ngắn ngủi ấy, bố
thường dừng lại ở tiệm kem có tên Nữ Hoàng để mua cho tôi một cây kem hình nón
giá 10 xu. Không phải lần nào cũng thế nhưng gần như thường xuyên tôi được bố
mua kem cho. Dau không cố nghĩ đến nhưng lòng tôi cứ khấp khỏi hy vọng mỗi khi
hai bố con về đến ngã rẽ quyết định", nơi mà bố sẽ đưa tôi thẳng đến tiệm
kem hoặc quẹo về nhà mà chẳng mua gì. Với tôi, đó là góc đường chứa đựng cả
niềm thích thú lẫn nỗi thất vọng.
Có vài lần, bố trêu tôi bằng cách đi thẳng.
- Bữa nay bố về đường này chỉ là để đổi không khí thôi đó nha.
Bố nói như thế khi lái xe ngang qua tiệm Nữ Hoàng mà không dừng
lại. Dĩ nhiên bố chỉ đùa thôi, và tôi cũng đã no bụng rồi, chứ không phải bố
muốn trêu tức gì tôi.
Tuyệt nhất là những ngày bố hỏi tôi bằng một giọng 'lịch sự' ra
vẻ chẳng 'tính toán' gì trước cả.
- Con có thích ăn kem nón không?
Lúc ấy tôi sẽ trả lời:
- Thưa bố, còn gì tuyệt hơn nữa.
Tôi luôn chọn kem sôcôla còn bố thì kem va ni. Bố dừng xe lại và
đưa tôi 20 xu để tôi chạy vào mua những loại kem mà chúng tôi thường ăn. Sau đó
cả hai bố con sẽ cùng ngồi ăn trên xe. Tôi yêu bố tôi và yêu cả những cây kem -
với tôi, đó là thiên đường!
Cho đến một ngày, cũng như những ngày khác, hai bố con đang trên
đường về nhà và tôi thì đang cầu mong lại được nghe những âm thanh du dương từ
miệng bố cất lên rủ tôi ăn kem như mọi khi. Và bố hỏi thật:
- Hôm nay con có thích ăn kem nón không?
- Thưa bố, còn gì tuyệt hơn nữa.
Nhưng lần này bố lại nói thêm:
- Bố cũng thấy tuyệt đó, con trai. Hôm nay con có muốn đãi bố
không?
Hai mươi xu! Những hai mươi xu! Đầu óc tôi quay cuồng tính toán.
Mình dư sức đãi bố ăn! Mỗi tuần tôi được cho 25 xu để tiêu vặt và cộng thêm một
ít cho những công việc linh tinh. Nhưng tôi biết tiết kiệm tiền là rất quan
trọng. Bố đã bảo vậy mà. Cho nên khi phải bỏ tiền ra để mua thì kem đối với tôi
dường như là một thứ xa xỉ, không cần thiết.
Tại sao lúc đó tôi không coi đây là cơ hội ngàn vàng để tặng một
điều gì đó cho người cha rộng lượng của mình? Tại sao tôi lại không nghĩ rằng
bố mình đã mua cho mình cả mấy chục cây kem rồi còn mình thì chưa mua cho bố
một cây nào hết? Nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến chỉ là '20 xu'.
Trong một thoáng vô ơn, ích kỷ và keo kiệt, tôi đã nói ra những
lời khinh khủng mà đến giờ còn vang mãi bên tai tôi.
- Thôi, nếu vậy thì con nghĩ con sẽ không ăn nữa.
Bố lặng lẽ nói:
- Được thôi, con trai.
Đến khi chúng tôi quẹo qua khúc quanh để về nhà, tôi nhận thấy
mình đã sai rồi và năn nỉ bố quay lại.
- Con sẽ đãi bố mà, quay xe lại đi bố.
Nhưng bố tôi chỉ nói:
- Không sao đâu con, thực ra chúng ta đâu cần ăn kem đâu - và
không để ý đến lời năn nỉ của tôi nữa, bố tiếp tục lái xe về nhà.
Tôi cảm thấy xấu hổ cho tính ích kỷ và thái độ bạc bẽo của mình.
Bố không một lần nhắc lại chuyện đó và cũng không hề tỏ ra thất vọng. Tôi nghĩ
là bố không cần phải làm gì cả để khắc sâu hơn lỗi lầm này trong tôi.
Tôi đã biết rằng có hai cách thể hiện sự rộng lượng và, để tỏ
lòng biết on đôi khi hai chữ 'Cám ơn' không thôi vẫn chưa đủ. Ngày hôm đó, để
thể hiện lòng biết on, tôi chỉ cần có 20 xu, và đó hẳn đã là cây kem ngon nhất
tôi từng được ăn nếu tôi dám bỏ ra 20 xu lúc ấy để đãi bố.
Tôi sẽ kể cho bạn nghe thêm một chuyện này nữa. Trong chuyến đi
chơi kế tiếp của chúng tôi vào tuần sau đó, lúc gần đến ngã rẽ, tôi đã hỏi bố:
- Bố ơi, hôm nay bố có thích ăn kem nón không? Con mời.
Điều vinh quang nhất của con người không phải ở chỗ không bao
giờ vấp ngã, mà chỉnh là vươn lên từ mỗi lần ngã.
- Khuyết danh
Chương 26: Món quà cuối cùng
Điều quan trọng không phải là chúng ta sống được bao lâu mà là
chúng ta phải sống như thế nào.
- Bailey
Lướt nhìn dãy hành lang bệnh viện vốn đã quá quen thuộc, Bob cố
không để cảm xúc nhận chìm khi sắp sửa gặp lại gương mặt sáng ngời của Peggy,
em gái mình. Cô bé đến lạ! Chỉ mới 7 tuổi đầu mà bất cứ ai tiếp xúc với em đều
như bị cuốn hút bởi sự nhiệt tình và ấm áp. Nhìn em hiếm khi ủ rũ, mấy ai biết
em chẳng còn sống được bao lâu nữa vì căn bệnh ung thư quái ác.
Thương em, Bob thường xuyên đến thăm. Ớ tuổi 16, cậu đã biết thế
nào là cảm giác đau đớn tột cùng khi nghe thông báo về bệnh tình của Peggy. Cậu
đã phẫn nộ, oán đời sao quá bất công với một cô bé ngây thơ, dễ thương đến vậy.
Ngược lại, Peggy vẫn thản nhiên như không. Em tự tay xếp những
con búp bê bằng giấy thành một bộ sưu tập. Cả thảy có 62 con đính trên tường.
Cứ mỗi lần Bob hỏi đến là em chỉ mỉm cười hạnh phúc bảo đó là các bạn của em.
Cậu ngậm ngùi: thì ra Peggy đáng yêu không thể có cuộc sống bình thường, nên
đành phải tự tạo cho riêng mình những người bạn. Và trái tim cậu lại càng xót
xa hơn khi thấy em mình chỉ chơi với những trẻ bệnh tật khác.
Mỗi ngày qua đi với Bob như tiếng tích tắc của quả bom định giờ.
Peggy yếu dần, nhưng nụ cười rạng rỡ và ánh mắt long lanh thì vẫn còn nguyên.
He Peggy hỏi sao anh hay rầu rĩ vậy là Bob chỉ cười nhẹ rồi đổi đề tài. Cậu
không muốn để em thấy nỗi đau quá lạc lõng với những ngày an vui cuối cùng của
em. Ớ nhà, Bob thường giam mình trong phòng. Đôi lúc lại đập đầu liên hồi vào
tường, khóc tức tưỏi hoặc vô cớ nổi cơn tam bành. Cuộc sống của cậu trở nên rã
rồi, tuyệt vọng như chính cậu sắp chết vậy.
Peggy qua đời hai tuần sau ngày sinh nhật lần thứ tám của em. Dù
đã biết trước, nhưng Bob vẫn tan nát cõi lòng. Cậu không thể chịu đựng nổi bầu
không khí thiếu vắng tiếng Peggy nói cười.
Lần cuối bước qua cánh cửa phòng số 32, Bob thực lòng mong thấy
Peggy vẫn đang ngồi đó. Nhưng đáp lại cậu chỉ có chiếc giường trống trải và
lạnh lẽo. Cậu muốn hét thật to và đập phá cái gì đó - làm bất cứ điều gì để phá
tan không gian im lặng, nặng nề như muốn bóp nghẹt trái tim cậu.
Chợt Bob thấy những con búp bê giấy bé xíu dán trên tường. Chúng
đang mỉm cười với cậu. Không nỡ bỏ mặc chúng ở đó, Bob tìm một chiếc hộp và gỡ
từng con bỏ vào. Lúc này cậu mới biết mặt sau những con búp bê có viết những
cái tên: Terrah, Ivy, Nicole, Amy,
Justin, Chris... Bỗng, chữ Jesse làm Bob chú ỷ. À, Jesse là
người bạn đầu tiên và cũng là bạn thân nhất của Peggy trong bệnh viện, đã qua
đời khoảng một năm trước. Dần nhớ ra nhiều cái tên khác, bất giác Bob hiểu tại
sao lại có những con búp bê bằng giấy này: chúng tượng trưng cho những đứa trẻ
đã mất kể từ khi Peggy nhập viện.
Cuối cùng, khi Bob run rẩy gỡ con búp bê thứ sáu mươi hai ra
khỏi tường, cậu phát hiện con búp bê có màu tía - màu mà Peggy thích nhất - với
nụ cười rất tươi.
Lật mặt sau con búp bê, đọc chữ Peggy bằng nét chì nguệch ngoạc,
tâm trạng hoài nghi, phủ nhận em gái mình đã chết bỗng chốc tiêu tan. Mắt cậu
nhòe trước sự thật đau đớn.
Vậy là Peggy đã biết mình cũng sẽ ra đi như những người bạn
khác. Giọng nói ngọt ngào quen thuộc của Peggy cứ vang lên trong đầu Bob. Nhưng
đây là lần đầu cậu hiểu em gái mình. Trước giờ, cậu luôn giấu kín Peggy chuyện
đau lòng này, cứ giả bộ mọi việc sẽ tốt đẹp vì thương em (hoặc vì thương chính
bản thân mình?). Thế mà Peggy không một lời oán trách cuộc đời quá bất công hay
tỏ ra mình bất hạnh. Em sẵn lòng coi căn bệnh cùng cái chết là một phần cuộc
sống của mình. Chẳng những không hoảng loạn như hầu hết mọi người trong tình
cảnh này, mà em còn quyết sống từng ngày còn lại thật xứng đáng. Những con búp
bê giấy là một cách tưởng nhớ những người bạn, nhớ mãi tất cả những niềm vui mà
họ đã mang đến cho em thay vì tiếc thương âu sầu.
Nhìn cuộc đời qua đôi mắt của Peggy, Bob hiểu Peggy không muốn
mọi người nghĩ mình sắp chết. Trong khi đó, ngược lại với em mình, Bob đã để
bệnh tật của Peggy bào mòn tinh thần mình. Thay vì là người anh chở che, nâng
đỡ em, cậu lại buông xuôi, để giờ đây tất cả đã quá trễ. Giá mà cậu nhận ra
điều ấy sớm thì đã chia sẻ với em mình nhiều điều hơn rồi. Ô, khoan đã! Ngó
trân trân những con búp bê giấy, Bob chợt thấy cũng chưa phải quá trễ. Cậu vẫn
có thể tiếp nhận tinh thần của Peggy, học cách tìm phương hướng tích cực trong
bất kỳ hoàn cảnh nào.
Bỗng nhiên, cậu cảm thấy nụ cười của Peggy đang khích lệ mình,
tiếp thêm can đảm cho cậu. Chưa bao giờ Bob lại ân hận mình hiểu quá ít về đứa
em đến thế. Điều quan trọng là cậu đã học được nhiều từ em gái mình, tìm thái
độ sống đúng đắn. Từ hôm đó trở đi, cậu cố không sa đà vào những đắng cay của cuộc
đời nữa, mà học cách tìm kiếm những mặt tích cực đôi khi đang ẩn mình trong
những chiếc bóng sợ hãi của chính mình.
Chúng ta thường sống cho tương lai - cho những điều sẽ xảy ra -
mà vô tình quên đi hiện tại. Peggy đã hiểu rằng hiện tại là một món quà. Mỗi
ngày, em mở món quà ra và khám phá tất cả sự huy hoàng và hạnh phúc mà nó mang
lại. Nhận ra giá trị của hiện tại chỉ là một nửa cuộc chiến đấu. Phải có chí
kiên cường và lòng quyết tâm mới chiến thắng được cuộc chiến ấy.
Chương 27: Nhận thức
Cảnh khổ, sự thất bại là một nấc thang cho bậc anh tài, một kho
tàng cho người khôn khéo và là một vực thẳm cho kẻ yếu hèn.
- Balzac
Trong một ngôi làng nhỏ nọ có hai anh em sinh đôi sống trong một
gia đình rất nghèo khổ. Cha họ là một người nát rượu, còn mẹ họ chỉ làm công
việc nội trợ. Một ngày nọ trên đường về nhà, cha mẹ của hai cậu bé bị mất trong
một tai nạn. Hai anh em lâm vào hoàn cảnh khốn khó. Khi được 17 tuổi, họ rồi
nhau, mỗi người đi một hương.
Nhiều năm trôi qua, họ có dịp sum họp. Một trong hai chàng trai
ngày xưa đã trở thành một kỹ sư giàu có và sở hữu một công ty xây dựng. Giờ
đây, anh đã có vợ và ba đứa con xinh xắn. Còn người kia thì nghiện rượu và
chẳng có định hướng nào trong cuộc sống.
Một người quen đã hỏi người em kỹ sư:
- Làm thế nào anh được như ngày hôm nay?
- Thế chị mong gì ở một đứa trẻ như em? Anh trả lời.
Cùng một câu hỏi ấy đối với người còn lại, anh ta đáp:
- Thế chị mong gì ở một đứa trẻ như em?
Rõ ràng, con người không bị tác động bởi những việc xảy ra mà
chính là bởi sự nhận thức của họ đối với những việc ấy.
Chương 28: Lời khen quý báu
Trong cách đối nhân xử thế, nếu ta đối xử với một người như thế
nào thì anh ta sẽ trở thành người như thế ẩy.
- Johann Wolfgang von Goethe
Tiệm kinh doanh các sản phẩm từ sữa của cha tôi thường xuyên
thuê khoảng mười lăm người làm việc hàng ngày. Chúng tôi khử trùng và tinh lọc
sữa do những nông dân mang đến mỗi sáng, đóng chai rồi giao cho các hộ gia đình
và các nhà hàng. Với khách hàng là trẻ em, chúng tôi có kem đủ loại (gồm 27
hương vị mê ly khác nhau) và sữa đựng trong hộp giấy nhỏ.
Khu nhà chứa sữa của chúng tôi trước đây, nay được sửa sang
thành một cửa hiệu nhỏ, bên trong dựng một bồn sô-đa thật lớn. Suốt mùa hè,
từng đoàn du khách xếp hàng lũ lượt tại quầy kem, háo hức chờ được thưởng thức
những que kem tuyệt hảo do cha tôi chế biến.
Tuy là cửa hàng nhỏ nhưng công việc lại cực kỳ tất bật, cho nên
mọi người phải liên tục làm không hề ngơi tay. Dòng du khách cứ nườm nượp,
không hề đứt đoạn. Giờ cao điểm trong những ngày nóng nực thường kéo dài nhiều
giờ liền. Bảy anh em tôi đã phụ giúp cha ngay từ nhỏ, do vậy chuyện chứng kiến
những người làm công mới đến rồi bỏ đi vì không chịu nổi nhịp độ làm việc căng
thẳng, đối với chúng tôi là thường tình.
Một ngày năm 1967, chúng tôi có người giúp việc mới, cô Debbie,
đến tranh thủ làm thêm trong kỳ nghỉ hè.
Ngày làm việc đầu tiên, Debbie hầu như đụng việc gì cũng hỏng.
Tính tiền sai trong sổ, báo lầm giá, đưa hàng không đúng cho khách và còn đánh
đổ sữa vung vãi. Thấy cô cứ liên tục mắc sai sót như vậy, chịu hết nổi, tôi bèn
đến gặp cha và gay gắt:
- Cha hãy ra ngoài kia xem có thể giải thoát cho cô ta khỏi
những hành động vụng về được không! - Trong lòng tôi mong cha sa thải cô Debbie
đi cho rồi.
Vì văn phòng của cha trông thẳng ra quầy nên chắc chắn ông không
lạ gì những điều tôi nói. Ông ngồi trầm tư giây lát, rồi chậm rãi đứng dậy và
bước tới chỗ cô Debbie đang đứng đàng sau quầy.
- Cô Debbie này - cha tôi cất giọng nhẹ nhàng, khẽ đặt tay lên
vai cô - tôi đã quan sát cô làm việc và cũng đã thấy cách cô bán hàng cho bà
Forbush.
Mặt cô Debbie đỏ ửng lên, rơm róm nước mắt, cố nhớ xem bà
Forbush là ai trong số những khách hàng bị cô đã thối nhầm tiền hay làm đổ sữa.
Cha tôi tiếp:
- Tôi chưa bao giờ thấy bà Forbush lịch sự như vậy với bất kỳ ai
trong cửa hàng của tôi. Vậy là cô đã biết cách làm bà ấy hài lòng. Tôi chắc
chắn mai mốt mỗi lần đến mua sữa thể nào bà ấy cũng mong muốn được cô phục vụ.
Hãy cứ làm tốt như thế nhé!
Tấm lòng nhân ái cùng với cách xử sự thông minh của cha tôi đã
mang lại cho ông một sự đền đáp xứng đáng. Trong suốt mười sáu năm sau, doanh
nghiệp gia đình chúng tôi đã có một nhân viên trung thành, tận tụy và một người
bạn tốt bụng.
Chương 29: Tiếng đàn dương cầm
Hạnh phúc nấp đằng sau cảnh cửa mà bạn không ngờ tới.
- John Barrymore
Tôi biết chắc, với đồng lương còm cõi làm trong một cửa hàng bán
lẻ mẹ không cách chi lo được cho tôi học đại học nếu tôi không tự xoay xở lấy.
Thế là ngoài các khoản trợ cấp học tập, tôi nhận thêm việc rửa chén ở tiệm ăn
của trường, dù chẳng vinh quang gì, nhằm trang trải học phí, sách vở và tiền ăn
ở.
Để tranh thủ, tôi ghi bài học lên những tấm thẻ rồi dán lên máy
rửa chén. Trong lúc máy làm việc, tôi lẩm nhẩm học thuộc cấu tạo và cân bằng
nguyên tử. Có những lúc đầu óc mệt mỏi khiến tôi đánh rơi ly tách xuống nền nhà
trong khi xếp chén dĩa vào tủ. Điểm học của tôi trồi sụt thất thường.
Đúng lúc tôi đang bên bờ vực phải bỏ học thì một thiên thần đột
nhiên xuất hiện. Vâng, một thiên thần không có cánh đang hiện hữu trên mặt đất
này.
Một người bạn đề nghị tôi giúp việc cho ông bà nội anh vào những
ngày cuối tuần. Chỉ cần tôi nấu ăn, đỡ
các cụ ra vào giường mỗi sáng và mỗi tối. Hàng tháng tôi sẽ được
trả 400 đô, gấp đôi so với thu nhập hiện thời. Tôi lại còn có thời gian để học
bài nữa. Thế là tôi đồng ý nhận việc.
n tượng đầu tiên của tôi là bà anh rất say mê âm nhạc. Bà có thể
ngồi hàng giờ bên chiếc dương cầm cũ kỹ đã mất vài phím. Một hôm, bà bảo sẽ dạy
tôi đánh đàn 'cho cuộc sống của cháu thêm vui'. Từ đó, tôi thường xuyên lui tới
phòng tập của sinh viên khoa nhạc ở trường để luyện ngón.
Bà bảo tôi có năng khiếu cảm thụ âm nhạc và khuyến khích tôi nên
tiếp tục. Bây giờ những ngày cuối tuần trong căn nhà hai ông bà không chỉ có
mỗi việc ăn uống và đọc sách mà còn tràn ngập những âm thanh du dương từ chiếc
đàn dương cầm thiếu phím và giọng hát sai nốt của hai ca sĩ, một già một trẻ.
Mùa Giáng Sinh đến, bà bị cảm lạnh nên tôi dự định sẽ về nhà hai
tuần thôi, thay vì bốn như đã tính, để sấm trở lại với hai cụ. Trước khi lên
đường tôi cố sắp xếp mọi việc cho ông bà rồi mới đi.
Ớ nhà tôi cứ nôn nao khi nghĩ đến tình cảnh của hai ông bà. Cuối
cùng hai tuần cũng qua. Đang lúc loay hoay chất đồ đạc lên xe để quay lại
trường thì chuông điện thoại reo.
- Daneen, cậu không phải quay lại trường vội đâu - giọng người
bạn tôi vang lên ở đầu dây bên kia - Tối qua, bà nội mình đã qua đời. Gia đình
mình đã quyết định gửi ông nội vào nhà dưỡng lão. Mình rất tiếc.
Tôi thẫn thờ, buồn quá đỗi vì đã mất đi một người bạn tâm giao.
Điều này xem ra còn tệ hơn cả chuyện tôi phải trở lại với công việc rửa chén
nhiều.
Đến cuối tuần thứ tư, tôi trở lại trường. Một lần nữa tôi đăng
ký làm thêm. Thầy phụ trách nhìn tôi như thể tôi là người loạn óc. Tôi lật đật
giải thích tình cảnh của mình. Nhưng thầy chỉ nhoẻn miệng cười rồi lấy ra một
phong bì và đưa cho tôi:
- Cái này dành cho em.
Đó là phong bì của bà cụ. Bà đã biết rằng mình sẽ không còn sống
được bao lâu nữa nên gỏi cho tôi một số tiền đủ để tôi trang trải đến hết năm
học kèm theo lời yêu cầu: tôi phải học đàn dương cầm để tưởng nhớ đến bà.
Chưa khi nào tôi trình tấu bản thế Old Grey Mare với nhiều cảm
xúc như lần ấy. Đến giờ, nhiều năm đã trôi qua, mỗi khi đi ngang một chiếc đàn
dương cầm, tôi đều mỉm cười và nghĩ đến bà. Tôi dám chắc bà cũng đang ngồi gõ
các phím ngà trên cõi thiên đàng.
Chương 30: Hãy dám tưởng tượng
Hai điều quan trọng tôi học được là: sự mạnh mẽ và tràn trề sinh
lực của bạn ra sao là do chính bạn tạo ra; phần khó khăn nhất của sự nỗ lực là
bước đi đầu tiên.
- Robyn Davidson
Khi mọi người thấy tôi ra tranh giải Đại hội thể thao Olympics
thế giới, họ nghĩ rằng tôi hẳn phải là một vận động viên điêu luyện, nhưng sự
thật không phải thế. Tôi không phải là người mạnh nhất hay chạy nhanh nhất và
tôi cũng không biết ai là người chạy nhanh nhất. Với tôi, trở thành một vận
động viên Olympics không phải là phát triển năng khiếu điền kinh tự nhiên, mà
thật ra, đó là hành động thuộc về ý chí.
Tại đại hội Olympics 1972 ở Munich, tôi là một thành viên trong
đoàn năm môn phối hợp của đội tuyển Mỹ, nhưng thảm kịch xảy ra cho các vận động
viên Israel cộng với chấn thương nơi mắt cá chân đã khiến tôi vô cùng chán nản.
Tuy nhiên, tôi đã không bỏ cuộc, thay vào đó tôi tập luyện không ngừng và cuối
cùng tôi cũng đủ tiêu chuẩn đi cùng đội tuyển Mỹ đến tranh tài tại Thế vận hội
1976 ở Montreal. Ket quả cuộc thi lần này vượt xa sự mong đợi, tôi hồi hộp khi
được xếp hạng 13. Nhưng tôi vẫn cảm thấy mình có thể làm tốt hơn.
Trước khi Olympics 1980 diễn ra một năm, tôi sắp xếp để tạm dừng
công việc của một huấn luyện viên ở trường đại học để chuyên tâm tập luyện. Tôi
tính rằng "24 giờ luyện tập mỗi ngày" trong suốt 12 tháng sẽ giúp tôi
có khả năng mang một tấm huy chương về cho đội nhà. Mùa hè năm 1979, tôi bắt
đầu chuỗi ngày tập luyện gian khổ cho kỳ thi tuyển chọn vận động viên tham dự
Olympic, sẽ tổ chức vào tháng 6!1980. Tôi đã vô cùng phấn chấn khi thành tích
tập luyện hướng đến mục tiêu hằng ấp ủ của mình ngày càng tiến bộ.
Nhưng tháng 11 năm đó, một khó khăn tưởng chừng không thể vượt
qua đã xảy đến với tôi. Trong một lần bị tai nạn xe hơi, tôi bị chấn thương
thắt lưng. Các bác sĩ vẫn chưa tìm ra nguyên do nhưng trước mắt tôi phải ngừng
tập luyện vì mỗi khi cử động tôi lại đau đớn vô cùng. Rõ ràng, tôi sẽ phải từ
bỏ giấc mơ tham dự Olympics nếu không tiếp tục luyện tập. Ai cũng tỏ ra nuối
tiếc cho tôi - tất cả mọi người, trừ tôi.
Thật kỳ lạ là bản thân tôi chẳng bao giờ tin rằng trở ngại này
sẽ làm tôi chùn bước. Tôi tin tưởng các bác sĩ và những nhà vật lý trị liệu sẽ
sớm giúp tôi hồi phục và rồi tôi sẽ luyện tập trở lại. Tôi luôn khẳng định
rằng: mình đang khá hom mỗi ngày và sẽ là một trong ba người đứng đầu ở kỳ thi
tuyển chọn vận động viên cho Olympics lần này. Điều đó hiển hiện trong đầu tôi
từng giây từng phút.
Tuy nhiên, bệnh tình của tôi tiến triển rất chậm và các bác sĩ
vẫn không cho phép tôi tập luyện. Thời gian trôi qua, tôi vẫn còn đau và không
thể cử động được. Chỉ còn vài tháng nữa cuộc thi chọn vào đội tuyển Olympics sẽ
bắt đầu, tôi phải làm điều gì đó, nếu không tôi sẽ chẳng bao giờ đạt được điều
mà tôi ấp ủ bấy lâu. Thế là tôi đã bắt đầu luyện tập theo cách duy nhất tôi có
thể: bằng cái đầu của mình.
Bộ môn năm môn phối hợp bao gồm 5 thể thức thi đấu: 100 m vượt
rào, ném tạ, nhảy cao, nhảy xa và cuối cùng là chạy nước rút 200 m. Tôi đi lùng
tất cả các phim huấn luyện của những người từng giữ kỷ lục thế giới 5 môn này
và mang về nhà ngồi xem đi xem lại. Đôi lúc, tôi cho đoạn băng chạy chậm hay
xem từng cảnh một, đến khi nào chán tôi xem ngược lại đoạn băng cho vui. Tôi đã
ngồi coi hàng trăm giờ, học hỏi, nghiền ngẫm và thẩm nghiệm. Những lần khác tôi
nằm dài trên đi văng và hình dung chi tiết từng phút trong cuộc thi. Tôi biết
có người nghĩ tôi điên, nhưng tôi không dễ dàng bỏ cuộc. Tôi cố gắng luyện tập
hết sức mình - mà không hề phải vận động một cơ bắp nào.
Cuối cùng, các bác sĩ cũng chẩn đoán ra vấn đề của tôi là do một
đĩa đệm ở xương sống phình ra. Giờ đây, tôi hiểu tại sao mình đau đớn mỗi khi
cử động, nhưng tôi vẫn chưa thể luyện tập được. Sau đó, khi có thể đi lại được
chút đỉnh, tôi đến đường đua của sân thi đấu và nhờ người dựng lên các nội dung
của năm môn tôi phải
tranh tài. Dù không thể thực hành, tôi vẫn đứng tại đường đua và
hình dung trong đầu tất cả mọi qui trình luyện tập thể lực mà tôi sẽ phải trải
qua nếu như tôi đã có mặt vào những ngày tập luyện. Trong nhiều tháng liền, tôi
không ngùng tưởng tượng đến cảnh mình thi đấu và khẳng định năng lực tại kỳ thi
tuyển chọn.
Nhưng liệu chỉ tập luyện trong tâm trí như tôi không thôi thì có
đủ không? Tôi có thật sự đủ năng lực để lọt vào tốp ba người giỏi nhất ở kỳ thi
tuyển chọn vận động viên tham dự Olympic này không? Tôi tin vào điều đó bằng cả
trái tim mình.
Đến khi cuộc tranh tài thật sự diễn ra, tôi cũng vừa hồi phục
kịp để tham dự. Do cẩn thận trong các động tác khỏi động làm nóng người, tôi
vượt qua 5 thể thức như trong mơ. Sau đó, khi đi ngang qua sân thi đấu tôi nghe
tiếng nói trên loa phóng thanh thông báo tên mình.
Tôi như muốn ngừng thở, dầu đã tưởng tượng đến điều đó cả ngàn
lần trong đầu. Trong lòng tôi, một ngọn sóng hân hoan trong lành dâng trào khi
phát thanh viên công bố: "Hạng nhì 5 môn phối hợp Olympic 1980 - Marilyn
King!"
Chương 31: Vượt qua bức tường câm lặng
Không gì ngăn được người có thái độ đúng đắn đạt được mục đích
của mình; và không gì có thể giúp kẻ thiếu lòng quyết tâm và thờ ơ với sức mạnh
vô hình này đạt được ước mơ, dù là nhỏ nhoi đến mấy.
- Thomas Jefferson
Cuộc phiêu lưu của tôi bắt đầu vào tháng 10 năm 1966 khi cô Nef
- bác sĩ trị liệu cho tôi, người có khả năng khiến những học viên khuyết tật
"bất hợp tác" phải run sợ - dẫn tôi vào căn phòng cũ kỹ không cửa sổ
của mình. Dù thường xuyên phải diện kiến với cô nhưng tôi vẫn không thôi kinh
hãi mỗi khi bị cô bất ngờ gọi đến.
Tôi vốn được gán cho biệt danh "thằng nhóc nổi loạn"-
vốn dành cho những đứa trẻ không bao giờ thực hiện đúng yêu cầu của bác sĩ trị
liệu - bởi vì sau nhiều năm áp dụng mọi phương pháp cả cổ truyền lẫn tân tiến
nhất, tôi vẫn chưa thể phối hợp được các động tác tay chân, và vẫn chưa thể nói
chuyện được rõ ràng. Tại sao mình phải nỗ lực nhỉ? - Đôi lúc tôi tự hỏi.
Hôm ấy, dù không phải giờ trị liệu của mình, tôi vẫn bị đẩy vô
văn phòng của cô Neff. Tôi sợ chết điếng và không khỏi hoang mang - Mình lại
làm gì sai đây?
Họ đã thua chứng bệnh của mình rồi chăng? Hay là mình sắp bị
đuổi khỏi trường?
Cô Neff đặt tôi ngồi trước bàn cô. Thay vì la mắng, cô cho tôi
xem vài tấm hình vẽ một vật gì đó từa tựa cái ná bắn chim lớn, nhưng thô sơ
hơn. Rồi cô chỉ cho tôi hình một đứa trẻ đang đánh máy bằng dụng cụ kỳ cục đó
gắn trên đầu.
- Đây là công cụ trị liệu ngôn từ - cô Neff nghiêm nghị nói -
chứ không phải là đồ chơi hay vũ khí. Chúng tôi nghĩ nó hợp với em nếu em muốn
sử dụng. Nhưng nếu tôi thấy em dùng nó để đâm thọc ai đó thì tôi sẽ tịch thu
ngay, hiểu không?
Tôi khó nhọc gật đầu. Cô nói tiếp:
- Sắp tới tôi sẽ hướng dẫn để mẹ em về nhà tập thêm cho em những
bài tập luyện cơ cổ. Em chịu khó tập ở nhà vào mỗi sáng. Sẽ mệt đấy, nhưng em
có thể làm được.
Sau khi cô Neff thuyết giáo với tôi xong là đến lượt bà Clanton.
Khác với những bác sĩ trị liệu khác, bà bác sĩ này chưa từng chứng kiến nhiều
thất bại của tôi. Bà nói một câu đơn giản:
- Tôi nghĩ em làm được mà, phải không?
Thế là cuộc hành trình thoát khỏi sự cách ly với thế giới của
tôi bắt đầu. Mỗi ngày, ở trường cũng như ở nhà, tôi dùng dụng cụ kỳ khôi kia để
lật trang sách đóng gáy lò xo, để chỉ vào hàng chữ trên tấm bảng ngôn ngữ do
bác sĩ trị liệu ngôn từ đưa ra, và dĩ nhiên để tập cả những bài tập cổ
"ngộ nghĩnh".
Thật không thể mô tả cảm giác ngây ngất trước những thành công
đầu tiên trong đời mình. Cứ như một giấc mơ vậy! Trước khi có chiếc que trên
đầu ấy, mọi biện pháp các bác sĩ thử cho tôi đều vô tác dụng, mọi người ke cả
bản thân tôi tưởng chừng đã tuyệt vọng. Nhưng giờ đây mọi sự đã khác! Cô Neff,
cô Clanton - giáo viên chủ nhiệm lớp tôi - cùng các bác sĩ ữị liệu đều tin vào
khả năng của tôi. Lòng tự tin cũng như hy vọng vào tương lai của tôi được gầy
dựng và ngày càng lớn mạnh.
Đỉnh cao của cuộc phiêu lưu này là khi cô Neff buộc chặt tôi vào
chiếc ghế tựa có tay vịn (vì tôi không thể tự giữ thăng bằng) và đặt trước mặt
tôi chiếc máy đánh chữ cổ lỗ sĩ. Cô bảo tôi mở cái máy cũ kỹ đó ra. Thật ngạc
nhiên, tôi làm được một cách nhanh chóng! Cô bảo tôi gõ tên mình. Tôi cũng làm
được. Cùng lúc đó, các bác sĩ trị liệu khác và cô Clanton cũng đang lặng lẽ
chia sẻ vinh quang với tôi từ buồng quan sát bên cạnh.
Mọi người tập trung trong phòng cô Neff hôm ấy - kể cả bản thân
tôi - nghĩ rằng khả năng giao tiếp của tôi tới đó là hết mức rồi. Nhưng chúng
tôi đã lầm. Sau này tôi còn có thể sử dụng cả máy vi tính. So với việc chinh
phục ngọn Everest hay vượt đại dương bằng bè thì cuộc hành trình của tôi thật
nhỏ nhoi. Nhưng đối với tôi, đó là cả một kỳ tích. Nhờ nó mà tôi có được sức
mạnh vô hình của niềm tin giúp tôi phá vỡ sự câm lặng đã giam giữ mình suốt 11
năm trời.
Chương 32: Cách nhìn
Ta thích hơi ấm bởi ta đã biết thế nào là giá lạnh. Ta trân
trọng ánh sáng bởi ta từng trải qua bóng tối. Và cũng như thế, ta thấm thìa
được niềm vui bởi ta đã nếm mùi đau khổ.
- David L. Weatherford
Ôi, những đôi chân! Mọi khi chúng ta vân chạy nhảy, trượt tuyết,
leo núi và bơi lội mà chẳng mảy may nghĩ suy gì đến chúng.
Scott, chồng tôi, đã từng nhờ đôi chân của anh để đoạt học bổng
khi thắng giải trượt tuyết xuống dốc hồi còn ở đại học và khi chinh phục các
đỉnh núi cao. Nhưng không ai trong chúng tôi ngờ rằng, vào một ngày tháng tư
nóng bức, trên dây sống lưng của Scott xuất hiện một khối u. Theo các bác sĩ
thì bệnh của Scott chỉ có thể đưa đến hai kết cuộc, hoặc là chết hoặc là bị
liệt.
Vợ chồng tôi có ba đứa con - Chase, Jillian và Hayden - lớn nhất
là bảy tuổi và nhỏ nhất là hai tuổi. Dù chỉ hiểu mập mờ về cái "điều tệ
hại" sắp xảy ra nhưng bọn trẻ chính là nguồn động viên tuyệt vời nhất đồng
thời là những người thầy giỏi nhất khi Scott giữ lại được mạng sống nhưng lại
bị liệt từ ngực trở xuống.
Người lán thường lưu giữ trong tâm trí họ những điều đã có trong
quá khứ dù nay đã không còn nữa. Tôi lúc nào cũng mãi nghĩ về những buổi cắm
trại gia đình sẽ không bao giờ xảy ra nữa, những chuyến leo núi cũng như trượt
tuyết mà Scott tuyệt nhiên không thể tham gia cùng bọn trẻ được. Chase, Jillian
và Hayden bận tíu tít với những sinh hoạt hằng ngày của chúng nên không quá
nặng lòng với những việc mà giờ đây hoàn toàn ngoài khả năng của cha chúng. Lúc
ở bệnh viện, bọn trẻ đứng cả lên bàn đạp chiếc xe lăn của Scott và reo hò thích
thú khi anh điều khiển chiếc xe đưa chúng xuống dãy hành lang yên ắng. Các bác
sĩ khuyên tôi nên chuẩn bị tinh thần trước cho Scott về việc anh sẽ phải ngồi
xe lăn suốt đời - bởi lẽ nếu Scott còn một tia hy vọng nào tin là mình còn có
thể đi lại được thì khi hiểu ra, anh nhất định sẽ rơi vào trạng thái suy sụp.
Các con tôi thì chẳng thèm nghe lời các bác sĩ; chúng luôn miệng thúc giục cha
mình 'cố gắng đứng lên'. Trong lúc tôi sợ Scott sẽ bị ngã, bọn trẻ lại cười ồ
cha chúng khi anh té bổ nhào trên bãi cỏ. Tôi đau lòng bật khóc nhưng chúng lại
tiếp tục giục anh 'thử lại lần nữa, bố ơi!'.
Giữa lúc cuộc sống của chúng tôi còn nhiều xáo trộn, tôi ghi
danh đi học vẽ cho khuây khỏa. Suốt tuần đầu, thầy giáo nói với chúng tôi rằng
ta không thể vẽ được Sự vật mà chỉ có thể vẽ không gian giữa chúng. Một hôm khi
đang ngồi bên gốc cây thông có tán lá thật rậm rạp để vẽ khoảng không gian ở
giữa các nhánh cây, tôi bắt đầu nhìn thấy thế giới theo cách mà Scott và bọn
trẻ đã nhìn thấy. Trong mắt tôi, các nhánh thông không phải là vật cản đường,
ngăn không cho một chiếc xe lăn băng qua bãi cỏ nữa. Giữa chúng còn có các
khoảng không gian đủ rộng để cho phép các chiếc xe lăn, con người và luôn cả
những con thú nhỏ cũng có thể lách qua. Khi thôi không quá tập trung đến các
nhánh cây - hay nói bóng bẩy hơn, những trở ngại trong cuộc đời - tôi đã nghiệm
ra được một cách đánh giá mới về tất cả những khoảng không gian. Cũng khá lạ
kỳ, bởi vì cho dù bạn vẽ những khoảng không gian hay là các nhánh cây, bức
tranh nhìn cũng đẹp chẳng khác gì nhau; chỉ có cách nhìn của bạn là khác.
Khi cùng tham gia với gia đình đi tìm các 'khoảng không gian',
dường như một thế giới mới mở ra trước mắt tôi. Nó không giống như thế giới
trước kia - đôi khi còn làm chúng tôi nản chí - nhưng chúng tôi vẫn thấy hài
lòng vì mọi người trong gia đình đang cùng chia sẻ khó khăn với nhau. Khi chúng
tôi thử qua tất cả các cuộc phiêu lưu mới này, Scott đã bắt đầu đứng lên và rồi
chống gậy đi được. Tuy anh không có cảm giác gì về phần dưới của cơ thể mình cũng
như không thể chạy nhảy hay đạp xe, anh vẫn rất thích những trải nghiệm mới mẻ
này. Chúng tôi hiểu được rằng người ta chẳng cần phải có cảm giác ở đôi chân
mới có thể thả diều, chơi cờ, trồng cây, bồng bềnh trong những ao hồ trên núi
hay học tập. Bạn cũng chẳng cần dùng đến chân khi ôm ai đó vào lòng, băng bó
vết thương hay vỗ về ai đó quên đi những con ác mộng. Một số người chỉ nhìn
thấy những chướng ngại vật trên đường đi, còn Scott đã chỉ cho chúng ta thấy
rằng những chướng ngại ấy chỉ là những khúc quanh trên con đường. Một số người
chỉ thấy những nhánh cây còn Scott và các con tôi lại thấy cả một khoảng không
bao la, đủ chỗ cho tất cả hy vọng và tình thương yêu mà một trái tim có thể
chứa đựng.
Chương 33: Bạn bè và người quen
Trong cuộc sống, bạn có thể gặp gỡ nhiều người, biết tên của họ
và nhận ra những người này giống bạn một vài điểm cũng như cảm thấy thoải mái khi
ở bên cạnh họ. Tuy nhiên, họ chỉ là những người bạn quen biết.
Bạn có thể mời những người này đến nhà và chia sẻ một số thứ.
Nhưng đó không phải là người mà bạn sẻ chia sẻ cuộc sống của mình. Đôi khi bạn
cũng chẳng thể hiểu nổi những hành động của họ vì bạn không hiểu biết họ đầy
đủ.
Một người bạn đúng nghĩa thì khác hắn, họ chính là người bạn
hằng yêu thương. Không nhất thiết phải hiểu theo nghĩa "tình yêu nam
nữ", nhưng bạn luôn quan tâm và mỗi khi không ở bên cạnh nhau, bạn luôn
nghĩ đến họ. Bạn bè là người mà bất cứ điều gì liên quan đến người ấy cũng đều
nhắc bạn nhớ đến họ. Không chỉ hình ảnh của họ được bạn lưu giữ mà tính cách
của họ cũng khắc ghi trong tâm trí của bạn.
Bạn bè là người khiến bạn cảm thấy an tâm khi ở bên cạnh bởi lẽ
bạn biết chắc họ quan tâm đến bạn.
Người ấy sẽ gọi điện cho bạn mà chẳng cần viện lý do này nọ, đơn
giản chỉ vì họ muốn biết cuộc sống hiện tại của bạn như thế nào. Người ấy luôn
nói thật với bạn trước, rồi bạn cũng sẽ làm y như thế. Bạn biết rằng mỗi khi
gặp khó khăn, họ luôn ở bên cạnh để lắng nghe.
Bạn bè sẽ không cười nhạo hay làm bạn tổn thương, và nếu có lỡ
khiến bạn đau lòng, họ sẽ cố hết sức để bù đắp. Người ấy chiếm giữ một phần
trong tim bạn, cho dù bạn có nhận biết được điều đó hay không.
Bạn bè là người cùng khóc với bạn khi bạn thi trượt đại học hay
tại buổi lễ tốt nghiệp. Mỗi khi ôm lấy người ấy, bạn không hề nghĩ rằng mình sẽ
giữ họ trong bao lâu và ai sẽ là người đầu tiên buông tay ra.
Trong ngày cưới của bạn, có thể họ sẽ sắm vai anh chàng rể phụ
hoặc là cô phù dâu, không chừng đó lại là người bạn cưới. Có lẽ họ sẽ bật khóc
bởi quá đỗi vui mừng hay tự hào về bạn.
Họ là người can ngăn bạn mắc sai lầm hoặc sẽ giúp bạn khi bạn
phạm lỗi. Họ là những người bạn nắm tay, ôm chầm hoặc hôn họ mà không hề cảm
thấy sượng sùng vì họ hiểu những gì bạn làm và họ yêu thương bạn bởi những điều
đó.
Bạn bè luôn gắn bó và ủng hộ bạn. Họ nắm lấy tay bạn để tiếp
thêm sức mạnh và lòng tin. Họ dõi theo từng bước của bạn trên đường đời, ngược
lại, bạn cũng dõi theo cuộc sống của họ và học hỏi từ đó. Cuộc sống của bạn sẽ
không còn như cũ nữa nếu không có người ấy.
Chương 34: Bạn bè phải thế chứ!
Chẳng phải tốn nhiều công sức mới làm cho người ta hạnh phúc.
Chỉ là một cử chỉ nếu bạn biết cách; chỉ là một lời nói thích hợp. Chỉ là sự
điều chỉnh nho nhỏ một cải chốt, cải vỉt hay một con ốc trong cỗ mảy tâm hồn
tỉnh xảo của bạn.
- Frank Crane
Jack thảy xấp giấy tờ lên bàn tôi - hai hàng chân mày của anh
nhíu lại thành một đường thẳng còn mắt anh thì nhìn tôi như tóe lửa.
- Có điều gì không ổn thế? - tôi hỏi.
Anh ta dí ngón tay vào bản kế hoạch đề xuất.
- Lần sau cô có muốn sửa đổi điều gì thì nhớ hỏi ý tôi trước -
anh nói xong rồi quay lưng đi để mặc tôi ngồi đó giận tím gan.
"Làm sao anh ta dám đối xử với mình như thế, " tôi nhủ
thầm. Tôi đã sửa lại một câu dài và chữa lỗi ngữ pháp - một công việc mà tôi
nghĩ mình được trả lương để làm vậy.
Chắng phải là tôi đã không được cảnh báo trước. Hai phụ nữ,
những người đã ngồi ở vị trí của tôi trước đây, gọi anh ta bằng những cái tên
mà tôi chẳng thể nào có can đảm nhắc lại. Ngay ngày đầu nhận việc, một đồng
nghiệp đã kéo tôi ra nói:
- Anh ta gián tiếp chịu trách nhiệm đối với việc hai thư kỷ
trước phải rồi bỏ công ty này đấy! - cô ấy thì thầm.
Nhiều tuần trôi qua, Jack ngày càng khiến tôi bực bội. Việc này
hoàn toàn trái ngược với những tín điều tôi hằng giữ - luôn nhẫn nhịn và yêu
thương kẻ thù nghịch. Nhưng với tính khí của Jack, anh ta sẽ càng làm già nếu
bạn cứ nín nhịn. Tôi cầu nguyện về điều này, thật lòng mà nói, tôi chỉ muốn
"uốn nắn" Jack, chứ không định yêu mến anh ta.
Một ngày nọ, những lời lẽ xúc phạm của anh khiến tôi bật khóc.
Tôi lao vào văn phòng của Jack, trong lòng chuẩn bị sẵn tâm lý cho chuyện mất
việc nếu cần, nhưng phải cho anh ta biết được cảm nghĩ của tôi trước đã. Khi
tôi mở cửa phòng bước vào, Jack ngước mắt nhìn. Anh cất cái giọng kẻ cả quen
thuộc:
- Chuyện gì?
Đột nhiên, tôi biết mình phải làm thế nào. Dù sao, anh ta cũng
đáng được như vậy.
Tôi ngồi đối diện với anh:
- Jack, anh nói với tôi bằng cái giọng điệu đó thật không phải.
Chưa ai nói chuyện với tôi kiểu như thế cả.
Với tác phong chuyên nghiệp, anh cư xử như vậy không được chút nào
và nếu tôi cho phép chuyện này tiếp tục thì cũng không hay nốt.
Jack cười khẩy, có vẻ khó chịu, và dựa lưng vô ghế. Tôi khẽ chóp
mắt, và thầm cầu nguyện: "Xin Chúa giúp con".
- Tôi muốn hứa với anh một chuyện. Tôi sẽ làm bạn với anh. Tôi
sẽ đối xử với anh bằng tất cả sự tử tế và tôn trọng như anh xứng đáng được
nhận. Mọi người đều có quyền được cư xử như vậy.
Tôi đứng dậy và bước ra ngoài.
Vài ngày sau đấy, Jack tránh mặt tôi. Các bản kế hoạch đề xuất,
thư tín đều được đưa đến bàn tôi khi tôi ra ngoài ăn trưa, và những bản đã được
tôi sửa cũng không thấy xuất hiện trở lại trên bàn. Một hôm, tôi mang bánh ngọt
đến công ty và để một ít bánh trên bàn của Jack. Hôm khác, tôi để lại lời nhắn
như sau: "Hy vọng hôm nay mọi sự đều diễn ra tốt đẹp với anh. "
Mấy tuần sau đó, Jack xuất hiện trong phòng tôi. Anh vẫn khó đăm
đăm nhưng thôi không còn xử sự một cách thô lỗ, cộc cằn nữa. Các đồng nghiệp
vây lấy tôi trong phòng nghỉ.
- Dường như Jack bị nắm tẩy rồi - họ nói - có lẽ chị đã trị được
anh ta.
Tôi lắc đầu:
- Jack và tôi đang trở thành bạn của nhau - tôi trả lời đầy tin
tưởng. Tôi từ chối bình luận thêm về anh ta.
Mỗi khi gặp Jack ở đại sảnh, tôi đều mỉm cười với anh.
ít ra, bạn bè cũng phải thế chứ!
Một năm sau "cuộc nói chuyện" của tôi và Jack, tôi
phát hiện mình bị bệnh ung thư. Ớ tuổi 32 và là mẹ của một đứa bé xinh xắn, tôi
thật sự phát hoảng. Tế bào ung thư đã di căn đến hạch bạch huyết và các thông
số cho thấy tôi khó mà chống chọi được với căn bệnh này trong thời gian dài.
Sau cuộc phẫu thuật, bạn bè và người thân đã đến thăm tôi. Họ cố gắng an ủi tôi
nhưng dường như chẳng ai biết phải nói như thế nào. Nhiều người thậm chí đã lỡ
lời. Một số khác thì khóc lóc và tôi lại phải khích lệ họ. Còn tôi, lúc này,
đang cố gắng bấu víu vào bất kỳ tia hy vọng mong manh nào.
Ngày cuối cùng ở bệnh viện, tôi chợt bắt gặp Jack đang ngượng
ngùng đứng ngay ngưỡng cửa phòng. Tôi mỉm cười vẫy anh vào. Jack tiến đến bên
giường bệnh và, chẳng nói chẳng rằng, đặt bên cạnh tôi một cái gói, trong đó có
vài búp hoa.
- Uất kim hương đấy - anh nói.
Tôi mỉm cười, nhưng chẳng hiểu nổi chuyện gì.
Anh ta đằng hắng và tiếp:
- Nếu cô đem chúng về nhà trồng, thì mùa xuân năm tới chúng sẽ
trổ hoa - Anh di di bàn chân tới lui - Tôi chỉ muốn nói là tôi tin cô sẽ có thể
có mặt ở đấy khi hoa nở.
Mắt nhòa lệ, tôi đưa tay ra.
- Cám ơn anh - tôi thì thầm.
Jack nắm chặt tay tôi và trả lời cộc lốc:
- Không có chi. Giờ thì cô chẳng thể thấy hoa đâu, nhưng mùa
xuân năm tới, cô sẽ nhìn thấy được những màu mà tôi đã chọn ra cho cô.
Anh ta quay lưng bước ra khỏi phòng mà chẳng nói thêm lời nào.
Vậy là suốt mười năm nay, cứ mỗi khi xuân về, tôi lại ngắm nhìn
những đóa uất kim hương vươn mình lên khỏi lớp đất dày để khoe các cánh hoa sắc
trắng pha đỏ. Thật ra, đến tháng chín này bác sĩ sẽ báo rằng tôi đã được trị
dứt bệnh. Những năm qua, tôi đã trông thấy con mình tốt nghiệp phổ thông rồi
vào trung học.
Người đàn ông cộc cằn ấy đã nói tất cả những lời động viên thích
hợp vào đúng cái giây phút tôi cần chúng nhất.
Ít ra, bạn bè cũng phải thế chứ!
Chương 35: Cái hũ
Theo như tôi còn nhớ, cái hũ ấy nằm trên nền nhà, phía sau tủ
quần áo trong phòng ngủ của cha mẹ tôi. Ngày nào cũng thế, hễ đến giờ ngủ là
cha đều lục túi lấy ra hết mấy đồng bạc để bỏ vào hũ. Lúc rơi xuống chạm đáy
hũ, những đồng bạc thường phát ra tiếng leng keng. Khi ánh nắng tràn vào phòng
ngủ, các đồng tiền bằng bạc, bằng đồng trở nên sáng lấp lánh, tôi hay trầm trồ
ngắm nghĩa tưởng tượng đấy là kho báu của bọn cướp biển. Mỗi lần hũ đầy, cha
luôn gom những đồng cắc này lại xếp chúng gọn gàng vào một chiếc hộp các- tông
nhỏ trước khi mang đến ngân hàng. Tôi thường được tháp tùng theo cha "áp
tải" chiếc hộp tiền đến ngân hàng trong chiếc xe tải cũ kỹ của ông.
Mỗi lần lái xe đến ngân hàng, cha đều nhìn tôi, ánh mắt tràn trề
hy vọng.
- Con sẽ thoát khỏi cái nhà máy sọi này, con trai ạ! nhờ vào
những đồng cắc ấy. Đời con rồi sẽ tốt hơn cha.
Cái thị trấn công nghiệp già cỗi này sẽ không thể nào buộc chân
con được.
Cũng thế, mỗi lần như vậy, khi đẩy cái hộp tiền xu cho nhân viên
thu ngân tại quầy giao dịch của ngân hàng, cha đều nhoẻn miệng cười đầy tự hào.
- Đây là quỹ đại học cho con tôi. Nó sẽ không bao giờ gắn cả đời
vào cái nhà máy này như tôi.
Chúng tôi luôn ăn mừng sự kiện tiền ký gỏi trong tài khoản ngân
hàng được nhiều thêm bằng cách ghé qua quầy kem nón. Lần nào tôi cũng chọn kem
sô-cô- la, còn cha thì thích kem va-ni. Khi người bán kem đưa cho cha tiền
thối, người đều xòe tay cho tôi xem mấy đồng xu.
- Chừng nào mình về đến nhà, chúng ta sẽ bắt đầu bỏ đầy hũ nữa.
Cha luôn cho tôi bỏ những đồng tiền đầu tiên vào cái hũ rỗng.
Khi âm thanh leng keng vang lên, chúng tôi nhìn nhau mỉm cười:
- Những đồng 10 xu, 20 xu và 50 xu này sẽ đưa con vào đại học
đấy - cha nói - mình nhất định làm được. Cha sẽ nhìn thấy được cái ngày đó.
Năm tháng trôi qua, tôi đã tốt nghiệp đại học và đi làm ở một
tỉnh khác. Một lần về thăm cha mẹ, tôi có ghé vào phòng ngủ của người và nhận
thấy chiếc hũ năm nào không còn ở đấy nữa. Nó đã hoàn thành nhiệm vụ và đã được
cất đi. Tự dưng tôi có cảm giác cổ họng nghẹn đắng khi đăm đăm nhìn vào chỗ
trống đằng sau tủ áo, nơi trước đây cái hũ nằm khiêm tốn. Cha tôi là người ít
nói, nên chưa bao giờ "thuyết giáo" cho tôi về giá trị của lòng quyết
tâm, tính kiên trì và niềm tin cả. Tuy nhiên, trong tâm trí tôi, chiếc hũ khi
xưa đã dạy tôi những đức tính đó còn hùng hồn hơn
hầu hết mọi ngôn từ hoa mỹ.
Khi kết hôn, tôi kể cho Susan, vợ tôi, về vai trò to lớn của
chiếc hũ đựng dưa muối tầm thường ấy đối với quãng đời niên thiếu của tôi. Cho
dù nhà có túng thiếu đến đâu, cha vẫn bền bỉ bỏ tiền vào trong hũ. Thậm chí vào
mùa hè năm cha bị sa thải khỏi nhà máy, khi ấy một tuần mẹ phải cho ăn món đậu
khô mấy lần, vẫn không một đồng xu nào bị lấy ra khỏi hũ. Ngược lại, lúc bắt
gặp ánh mắt cha nhìn mình, khi rưới nước sốt lên dĩa đậu khô của tôi cho dễ ăn,
tôi nhận thấy cha còn quyết tâm hơn lúc nào hết để tìm lối thoát cho tôi.
- Khi con tốt nghiệp đại học, con trai - cha nói mà ánh mắt long
lanh - con sẽ chẳng bao giờ phải ăn đậu nữa... trừ phi con muốn thế.
Vào ngày lễ Giáng Sinh đầu tiên sau khi con gái Jessica của
chúng tôi chào đời, gia đình nhỏ của tôi về nghỉ lễ ở nhà cha mẹ. Sau buổi ăn
tối, cha và mẹ ngồi cạnh nhau, cùng nựng nịu đứa cháu nội đầu tiên của mình.
Chợt Jessica mếu khóc, Susan bèn đón lấy cháu từ tay cha tôi.
- Có lẽ con bé cần được thay tã, vợ tôi nói khi bế em bé vào
phòng cha mẹ tôi.
Khi Susan trở ra, tôi đọc thấy điều gì là lạ trong mắt nàng. Vợ
tôi đưa Jessica cho cha trước khi nắm lấy tay tôi kéo vào phòng.
- Anh nhìn này! - nàng nói khẽ, đưa mắt chỉ cho tôi phía sàn nhà
đằng sau tủ áo.
Trước sự ngạc nhiên của tôi, như thể chưa từng được dẹp đi,
chiếc hũ đựng dưa muối ngày nào đang nằm ở đấy, dưới đáy hũ đã có sẵn một ít
tiền xu. Tôi bước tới chiếc hũ, thọc tay vào túi lấy ra một nắm tiền lẻ. Tim
như nghẹn lại với cảm xúc dâng tràn, tôi bỏ những đồng xu vào hũ. Khi ngước mắt
lên, tôi bắt gặp cha, đang bế bé Jessica - Người đã lặng lẽ vào phòng từ lúc
nào. Ánh mắt chúng tôi chạm nhau, và tôi biết rõ trong lòng cha con tôi đang
cùng dâng trào một cảm xúc giống nhau. Không ai trong chúng tôi nói được lời
nào.
Điều này thật sự khiến tôi xúc động...
Tôi nghĩ, có lẽ, bạn cũng đã có những phút xúc động như thế. Đôi
lúc chúng ta quá bận rộn chất chồng những mối lo toan lên đời mình mà quên góp
nhặt những niềm hạnh phúc mình có được. Khi đau thương, ta ngoái nhìn lại. Khi
lo lắng, ta lướt nhìn quanh. Và, khi tin tưởng, ta ngước nhìn lên.
Cảm nhận tình yêu của những người ta yêu quý là ngọn lửa sưởi ấm
cuộc đời ta.
- Pablo Neruda
Chương 36: Ngôi nhà có một nghìn chiếc gương
Ngày xưa, tại một ngôi làng nhỏ xa xôi, có một nơi mà người ta
gọi là 'Ngôi nhà có 1000 chiếc gương'. Có một chú chó nhỏ yêu đời nghe nói về
nơi này nên quyết định đến thăm. Khi đến nơi, chú ta hăm hở phóng nhanh lên các
bậc thang dẫn đến cửa của căn nhà với tâm trạng vui vẻ. Chú đưa mắt nhìn qua
cửa, đôi tai vểnh cao và đuôi vẫy ra dáng mùng rỡ. Thật ngạc nhiên! Chú phát
hiện ra có 1000 chú chó nhỏ vui vẻ khác đang nhìn chú và cũng đang vẫy đuôi hơn
hở y như chú. Chú nở một nụ cười thật tươi tắn và, lạ chưa, chú được đáp lại
ngay cũng với 1000 nụ cười rạng rỡ như thế. Khi rồi khỏi ngôi nhà, chú chó vui
vẻ tự nhủ: "Nơi này thật kỳ diệu. Mình sẽ đến đây thường xuyên. "
Trong làng, có một chú chó nhỏ khác cũng quyết định đến thăm
ngôi nhà. Chú chó này không có được tính khí vui vẻ như chú chó đầu tiên. Khi
đến ngôi nhà, chú ta chậm rãi leo lên từng bậc cầu thang rồi cúi đầu lom khom
nhìn qua cửa. Chú cũng thấy bên trong là 1000 chú chó khác nhưng sao chúng
trông chắng thân thiện chút nào. Con nào con nấy cũng nhìn vào chú chằm chằm.
Chú liền phản ứng bằng cách cất tiếng gầm gừ với đám chó ấy và rồi lại khiếp sợ
khi thấy 1000 con chó kia gầm gừ đáp trả, gần như tức thời. Không chần chừ, chú
chó cụp đuôi bỏ đi ngay và tự nhủ: "Nơi này thật ghê rợn, mình sẽ chẳng
bao giờ đến đây nữa. "
Trong cuộc sống mọi khuôn mặt xung quanh bạn là những chiếc
gương phản chiếu của chính bạn. Vậy bạn đã nhìn thấy gì trên gương mặt người
đối diện với bạn nào?
Hai người cùng nhìn bầu trời buổi tối qua những chắn song. Một
người chỉ thấy toàn một màu đen, còn người kia thì thấy những vì sao nhấp nhảy.
- Frederick Langbridge
Chương 37: Chạm đáy
- Con người không thay đổi nhiều đâu...
- Có chứ. Họ lớn lên, nhận lãnh trách nhiệm và nhận ra rằng:
"chết trẻ, xinh đẹp " thực chất không giống như những gì mà người ta
ca ngợi.
Drue và Jen - hai nhân vật trong bộ phim
'Ngã rẽ cuộc đời'
Gia đình tôi vừa chuyển đến thị trấn. Hồi trước chuyện kết thân
bạn mới thật dễ dàng đối với tôi, nhưng bây giờ, vì hay ngượng ngập về dáng vẻ
của mình nên tôi cảm thấy rất khó. Bởi vậy, thấy đám con trai hút thuốc tôi
liền nghĩ nếu mình cùng hút với tụi nó thì có thể gặp được "bạn" tâm
đầu ý hợp. Thế là ngày lại ngày tôi lê la, chơi bòi với chúng. Tôi được giới
thiệu với những đứa khác. Rồi chuyện tôi tập tành nhậu nhẹt cũng là lẽ đương
nhiên. Chẳng mấy chốc, ma túy cũng đồng hành với tôi. Cuối cùng tôi bỏ nhà đi
bụi. Ấy là buổi tối, tôi về nhà trễ và mẹ vẫn còn thức. Mẹ thấy tôi ngồi trong
xe của thằng bạn (mẹ vốn rất khắt khe chuyện nam nữ), mà tôi lại đang say thuốc
đến nỗi không vào nhà nổi, thế là tôi vù đi luôn với thằng bạn.
Ke từ đó, chỉ trong một năm rưỡi mà tôi đã bỏ nhà đi những hai
mươi ba lần! Lần nào cũng bị bắt về, nhưng trong vòng 24 tiếng sau tôi lại đi
tiếp. Tôi lậm thuốc đến mức lo sợ nếu ở nhà sẽ không chịu nổi những cơn vật vã
do thiếu thuốc.
Tôi trú ngụ ở nhà bạn bè, đến chừng bị ba mẹ tụi nó phát hiện thì
tôi ra sống trên hè phố. Lúc trời lạnh thì tầng hầm của những căn hộ liên kế
trở thành nơi cư trú của tôi, chứ nhất định không liên lạc với mẹ.
Mẹ buồn lắm. Biết bao lần mẹ đưa tôi vào trung tâm cai nghiện,
nhưng cứ hễ bỏ được ma túy thì mấy tuần sau tôi lại tái nghiện. Cứ thế, rốt
cuộc mẹ phải bỏ việc để dành hết thời giờ giúp tôi. Đã ba chương trình cai
nghiện ngắn hạn trôi qua, mỗi đợt kéo dài từ 11 đến 14 ngày. Tôi cũng hạ quyết
tâm cai lắm, nhưng chẳng biết làm sao. Xem ra những chương trình ngắn ngủi đó
không đủ cho tôi thoát khỏi sự cám dỗ của ma túy. Đã thế tôi còn sa vào tình
trạng ăn uống vô độ nữa chứ.
Riết rồi mẹ quyết định tôi phải điều trị dài hạn. Thoạt tiên,
tôi kịch liệt phản đối. Lúc đó, cuộc sống của tôi đã rơi xuống tận cùng. Với
tôi, các trung tâm cai nghiện đều vô ích. Chuyện chơi thuốc quá liều là điều
thường tình, không sao đổi dòi được. Khi ấy tôi chỉ thấy tự tử là lối thoát duy
nhất.
Sau đó, mẹ tìm cho tôi một chuyên viên tư vấn, kể cho ông ta
nghe hết về quá khứ của tôi, về những thứ ma túy tôi từng chơi. Ngày hôm sau,
tôi được đưa vào một trung tâm cai nghiện lớn. Nơi ấy như một đại gia đình. Tôi
đến trường nửa buổi, được tư vấn đến nơi đến chốn. Do tôi nghiện cocain nặng
nên phải trải qua một chương trình cai nghiện đặc biệt.
Đã gần sáu năm nay, tôi không đụng đến ma túy nữa. Ớ đấy tôi có
cơ hội gặp những người đồng trang lứa thực sự muốn làm lại cuộc đời. Quả thật
những chuyên đề như "Hãy giúp tôi rồi tôi sẽ giúp bạn" đã ảnh hưởng
sâu sắc đến quá trình bình phục của tôi. Đồng thời, được chứng kiến nhiều những
tấm gương người thật việc thật thoát khỏi ma túy và gầy dựng lại cuộc đời càng
khiến tôi lạc quan và quyết tâm cai thuốc.
Muốn sống tốt là một chuyện, nhưng theo đuổi nó lại là chuyện
khác. Kết thúc điều trị, tôi chuyển nhà một lần nữa. Tôi lại e sợ trước sau gì
mọi người ở trường mới sẽ phát hiện ra quá khứ của mình. Có vẻ như tôi lặp lại
tình cảnh hồi năm tôi mưòd một tuổi - không bạn bè - nhưng lần này tôi không
cần đến ma túy mới hòng kết được bạn.
May mà tôi còn sáng suốt, khao khát cuộc sống nề nếp đến nỗi lập
tức đi tìm ngay người tư vấn nhờ hướng dẫn. Tôi thú thật với cô rằng tôi không
tin mình sẽ không trượt trở lại lối sống cũ. Thật ngạc nhiên, cô đề nghị tôi
hãy kể lại chuyện mình cho các em lớp 5 và lớp 6 nghe. Tôi chưa bao giờ nói
chuyện trước đám đông cả, nhưng cô đảm bảo tôi sẽ làm tốt.
Dù vậy tôi vẫn rất ngại nên rủ mẹ cùng tham gia. Tối đó, mẹ con
tôi ngồi lên kế hoạch. Đây là lần đầu tiên kể từ khi tôi lên 10, chúng tôi mới
có lại được mối dây thân tình đến thế.
Tôi trình bày hai buổi ở một trường tiểu học, và bài nói chuyện
của tôi được lên trang đầu các tờ báo địa phương. Rồi các trường học khác gọi
điện tới. Tôi hơi hoảng, không dám tin họ muốn mời tôi đến nói chuyện. Họ còn
bảo tôi có thể giúp các bạn trẻ khác nữa chứ. Đã vậy thì tôi lại càng kiên
quyết rồi xa ma túy. Một khi biết mình có thể cứu vãn cuộc đời của người khác
thì bản thân mình cũng phải cố sống cho xứng đáng.
Tôi và mẹ cùng nhau đi nói chuyện ở các trường học và các trung
tâm cai nghiện. Sau mỗi buổi nhiều bạn trẻ gọi về nhà cho tôi. Có bạn cảm ơn,
có bạn tâm sự, có bạn thậm chí còn ca ngọi tôi. Thật là những phần thưởng quý
giá!
Sự thành công chắc chắn chỉ cho ta thay bề mặt của cuộc đời,
nghịch cảnh sẽ cho ta thấy trọn vẹn.
- Colton
Chương 38: Đôi tay của mẹ
Mức độ lớn khôn trong cuộc đời của mỗi người như thế nào tùy
thuộc vào thái độ ứng xử của người ấy đối với những người khác: dịu dàng với
người trẻ, nồng nàn với người già, thông cảm với người có chí hướng phấn đấu và
khoan hòa với kẻ yếu và kẻ mạnh. Bởi lẽ, cuộc đời mỗi người đến lúc nào đó sẽ
phải lâm vào cảnh ngộ của những người này.
- George Washingọton Carver
Khi bước vào lứa tuổi thiếu niên chúng ta sống trong một thế
giới khác với mẹ mình, một thế giới mà các bà mẹ chỉ có thể lòng vòng bên ngoài
và không thể xâm nhập vào được. Tất nhiên, hầu hết bọn trẻ đều có một thế giới
riêng và trong suy nghĩ của chúng, các bà mẹ chỉ luôn mang lại phiền toái.
Giờ đây, khi cũng có con đang bước vào độ tuổi ấy, tôi mới thấu
hiểu nỗi lòng của mẹ tôi ngày xưa. Đôi lúc, tôi ước mình có thể khiến cho thời
gian ngừng trồi để mẹ đừng già thêm và cũng không mãi lặp lại những câu nói của
mình.
Chúng tôi ngồi quanh bàn bếp khi mặt trời hắt những tia nắng
cuối cùng lên sàn nhà. Ann, con gái tôi, đang ngồi cạnh bà ngoại. Hai bà cháu
đang cùng chơi cờ triệu phú còn tôi thì bận bịu sửa soạn món rau trộn cho bữa
tối.
- Chừng nào thì Rick về vậy con? Mẹ nhắc đến chồng tôi.
- Con không rõ nữa, mẹ ạ! - tôi kiên nhẫn trả lời - Chắc nhà con
sẽ về kịp bữa tối.
Tôi thở dài và đứng dậy. ít nhất đây cũng là lần thứ mười mẹ lặp
lại câu hỏi này trong vòng vài phút. Mẹ dặn tiếp:
- Nhớ đừng cho hành vào. Con biết là ba con không có thích hành
đâu đấy!
- Vâng ạ!
Tôi trả lời rồi cất mấy cũ hành vào lại trong tủ lạnh rồi lấy ra
một cũ cà rốt, cạo sạch và xắt thành từng miếng nhỏ hình hột lựu. Con dao trong
tay tôi xắn mạnh xuống cũ cà rốt hơn mọi khi. Một miếng cà rốt nhỏ rơi xuống
đất. Mẹ lại nhắc tôi:
- Nhớ đừng cho hành vào rau trộn nghe con. Ba con không thích
hành đâu đấy!
Lần này tôi không trả lời mẹ nổi và cứ cắm cúi cắt, thái đồ ăn.
Uớc gì mình có thể làm như thế này với thời gian để xóa bỏ dấu ấn của năm tháng
hằn sâu trên khuôn mặt và đôi tay mẹ. Uớc gì tôi được trở lại thời niên thiếu,
khi mẹ tôi đi qua các phòng trong nhà, để
lại hương thơm và hơi ấm ở mỗi nơi mẹ đi qua.
Hồi trẻ mẹ tôi rất đẹp. Giờ đây bà vẫn thế, chẳng thay đổi gì
nhiều so với hồi xưa, chỉ trừ một điều là hơi bị đãng trí. Tôi tự thuyết phục
mình rằng tất cả chỉ có thế, và nếu mẹ tập trung một chút thì mẹ cũng chẳng
thường xuyên lặp lại lời nói của mình. Quả thật, chẳng có gì bất ổn với mẹ cả.
Tôi cắt đầu trái dưa leo và chà mạnh vào phần cuống của nó để
loại bỏ vị đắng. Một chất nhựa trắng rỉ ra. Phải chi chuyện bực mình hay khó
chịu nào cũng có thể dễ dàng loại bỏ được như vậy thì tốt biết mấy? Chỉ cần cắt
bỏ và cọ sạch. Đó là mẹo mà mẹ đã dạy cho tôi cùng với vô số những việc khác
như nấu nướng, may vá, hẹn hò, bông đùa và suy nghĩ. Tôi đã biết trưởng thành
như thế nào, lúc nào cần duy trì sự trẻ trung và bày tỏ cảm xúc một cách thích
hợp. Tôi cũng biết rằng mỗi khi có mẹ ở bên cạnh tôi chẳng bao giờ phải lo sợ
bất cứ điều gì.
Thế mà vì sao giờ đây tôi lại sợ?
Tôi quan sát kỹ đôi tay của mẹ. Móng tay mẹ giờ đã cắt ngắn,
không còn màu sơn đỏ tươi nữa mà chỉ phơn phớt hồng. Khi nhìn đôi bàn tay ấy,
tôi nhận ra rằng không phải tôi đang ngắm một đôi tay mà là đang cảm nhận sự
định hình tuổi trẻ của tôi qua đôi tay ấy. Chính chúng đã sửa soạn cả ngàn bữa
cơm trưa, lau khô hàng triệu giọt nước mắt trên má tôi. Đôi tay mà từng ngày đã
bồi đắp cho tôi thêm niềm tự tin.
Tôi quay đi, thảy trái dưa leo vào tô nước. Và một điều bất chợt
đập vào mắt tôi. Tôi thấy đôi tay của mình đã trở nên giống như đôi tay mẹ tự
bao giờ.
Đôi tay này cũng đã nấu những bữa cơm để rồi chẳng có ai ăn,
cũng đã lái xe đi hàng trăm dặm để đưa đón người thân đi làm, cũng đã nắm lấy
những ngón tay run rẩy của con gái mình trong ngày đầu tiên cháu đi học và cũng
đã từng lau khô những giọt nước mắt trên khuôn mặt nó.
Nghĩ đến đấy, lòng tôi tự nhiên nhẹ hẳn. Tôi nhớ lại cảm giác
đằm thắm từ nụ hôn của mẹ đặt lên trán tôi trước khi đi ngủ, bóng dáng của mẹ
khi người bước đến bên cửa sổ để kiểm tra lại xem có cài then chưa và rồi không
quên gửi chiếc hôn gió trước khi rồi khỏi phòng tôi. Giờ thì tôi lại đứng vào
chỗ của mẹ, cũng gửi nụ hôn gió tương tự cho con gái mình bằng bàn tay này.
Bên ngoài vạn vật trở nên tĩnh lặng. Màn đêm đang buông dần trên
các tàn cây, tạo ra từng mảng sáng tối hư ảo. Con gái tôi một ngày nào đó cũng
sẽ thay thế vị trí hiện tại của tôi, còn tôi sẽ ngồi ở nơi mẹ đang ngồi bây
giờ.
Liệu lúc ấy tôi có còn nhớ được cảm giác vừa làm mẹ vừa làm con
gái không nhỉ? Liệu tôi có liên tục lặp đi lặp lại một câu nào đó với con gái
mình như mẹ cứ hay lặp lại với tôi không nhỉ?
Tôi bước đến, ngồi xuống giữa mẹ và con gái mình. Mẹ đặt bàn tay
của mình lên bàn, sát ngay tay tôi, rồi lại cất tiếng hỏi:
- Rick đâu rồi con?
Giờ đây, sự ngăn cách giữa tôi và mẹ rất nhỏ. Nhỏ hơn nhiều so
với lúc tôi bước vào tuổi dậy thì và phải tinh mắt lắm mới nhận ra được.
Trong khoảnh khắc ấy, tôi biết mẹ vẫn nhớ rõ mọi chuyện. Có thể
mẹ lặp đi lặp lại hơi nhiều, nhưng không phải vì mẹ nghễnh ngãng. Mẹ nhớ chứ
chẳng hề quên.
Tôi trả lời mẹ bằng nụ cười:
- Chồng con sẽ về ngay thôi, mẹ à!
Mẹ cười lại với tôi, để lộ hai lúm đồng tiền xinh xắn quen thuộc
trên má mẹ. Con gái tôi giống bà ngoại nó ở điểm này.
Sau đó, mẹ thả lỏng đôi vai, thò tay nhặt hạt xí ngầu lên đổ.
Chương 39: Vết sẹo
Chú bé đưa cho mẹ tờ giấy mời họp hội nghị phụ huynh của trường
tiểu học. Lạ thay, khi thấy mẹ bảo sẽ tham dự chú bé lộ vẻ sững sờ! Đây là lần
đầu tiên bạn học và cô giáo có dịp gặp mặt mẹ chú, mà chú thì chẳng muốn chút
nào. Chú rất ngượng ngập vì vẻ bề ngoài của mẹ. Mặc dù khá xinh đẹp, nhưng phía
bên má phải của bà có một vết sẹo rất lớn. Chú bé chưa bao giờ hỏi tại sao và
trong trường hợp nào mẹ lại bị như vậy. Suốt buổi họp lớp, chẳng ai để ý đến
vết sẹo ấy mà chỉ ấn tượng về vẻ duyên dáng và phong cách cư xử ấm áp của bà.
Tuy vậy, chú bé vẫn bối rối và lẩn tránh mọi người. Tình cờ, chú nghe lỏm được
câu chuyện giữa mẹ và cô giáo chủ nhiệm.
- Dạ, vì sao bà lại bị vết sẹo này trên mặt vậy ạ? - cô giáo rụt
rè hỏi.
- Khi con trai tôi còn đỏ hỏn, nó bị kẹt trong căn phòng bị hỏa
hoạn. Lửa bén dữ quá nên không ai dám xông vào, thế là tôi liều mình lao đại
vào. Vừa chạy tới bên nôi của cháu thì tôi thấy một thanh xà sắp rơi xuống.
Không kịp suy nghĩ, tôi liền ghé thân che cho con rồi bất tỉnh luôn. May mà một
anh lính cứu hỏa đến kịp và cứu hai mẹ con tôi ra. vết sẹo đã thành vĩnh viễn,
nhưng tôi không bao giờ hối hận về điều đó.
Nghe xong chú nhỏ ùa tới ôm chầm lấy mẹ, nước mắt lưng tròng.
Người chú run lên vì xúc động. Đức hy sinh của mẹ thanh cao quá! Cả ngày hôm
đó, chú cứ nắm riết lấy tay mẹ không rời.
Chương 40: Cha tôi
Có bao giờ bạn nghe ai đó nói rằng: "Điều quan trọng nhất
là đừng bận tâm đến cách bạn nhìn mà nên suy nghĩ về cách bạn thấy"? nếu
chưa thì cũng cần một người nói nên điều ấy
- Carmen Richardson Rutlen
Cho đến khi học trung học tôi mới nhận ra cha mình bị sứt môi hở
hàm ếch bẩm sinh nhưng trong mắt tôi cha chỉ có một gương mặt duy nhất từ khi
tôi mới chào đời. Tôi nhớ trong một lần hôn chúc cha ngủ lúc còn bé, Tôi hỏi
cha rằng liệu mũi mình có bị xẹp xuống không nếu tôi cứ hôn như vạy suốt đời.
Cha trấn an tôi rằng chuyện đó sẽ chẳng bao giờ sảy ra đâu. Lúc ấy tôi mới thấy
trong ánh mắt cha niềm hạnh phúc dâng trào. Chắc là cha quá ngạc nhiên và xúc
động vì có một cô con gái yêu thương mình hết mực đến nỗi tin rằng chính những
nụ hôn chứ không phải những lần phẫu thuật đã làm biến dạng khuôn mặt ông.
Cha tôi là người tử tế, nhẫn nại, chín chắn và giàu lòng nhân
ái. Cha chính là thần tượng của tôi và là người mà tôi rất mực yêu thương. Cha
luôn nhìn thấy trong mỗi người mà ông gặp một điểm tốt nào đó. Ở sở làm, cha
thuộc hết tên mọi người từ những người lao công, các thư ký cho đến ban giám
đốc. Thật ra, tôi nghĩ là cha thích những người lao công hơn cả. Ông luôn hỏi
thăm về gia đình, cuộc sống của họ và chuyện trò cùng họ với sự quan tâm chân
thành.
Chưa bao giờ cha để diện mạo khiếm khuyết của mình chi phối cuộc
đời cha. Khi người ta chê ngoại hình của cha không phù hợp với công việc giao
dịch buôn bán, cha tự đạp xe đi giao hàng và vạch ra lộ trình riêng cho mình.
Khi không được gọi nhập ngũ, cha tình nguyện đăng ký. Thậm chí, có lần cha còn
đánh tiếng mời một thí sinh tham dự cuộc thi Hoa hậu Mỹ đi chơi. Sau này cha
bảo tôi:
- Nếu không thử thì làm sao biết được.
Hiếm khi nào cha nói chuyện qua điện thoại bởi lẽ lúc đó người
ta khó mà nghe và hiểu được những điều cha nói. Chỉ đến lúc giáp mặt, trông cử
chỉ thân thiện và vui vẻ của cha người ta mới cởi mở và thôi không để tâm đến
khiếm khuyết trên khuôn mặt cha nữa. Cha đã kết hôn với mẹ tôi, một phụ nữ xinh
đẹp và có bảy đứa con hoàn toàn khỏe mạnh. Tất cả chúng tôi - những đứa con
thân yêu của cha luôn tin rằng cả hai vầng nhật, nguyệt đều đến từ khuôn mặt
của cha mình.
Thế mà, khi bước sang tuổi mới lớn nhiều cắc cớ, tôi thấy mình
phải dễ tính lắm mới chịu ở cùng phòng với người đàn ông mà suốt cả chục năm
qua luôn chịu đựng để cho tôi ngồi xem ông cạo râu mỗi sáng. Bạn bè tôi đứa nào
cũng bảnh bao, tân thời và được nhiều người ưa, còn cha tôi thì trái ngược hắn:
già nua và không chưng diện.
Một đêm, tôi về nhà với một xe đầy nhóc lũ bạn. Chúng tôi đi
chơi khuya và ghé vào nhà tôi để kiếm cái gì đó ăn lót dạ. Cha tôi ra khỏi
phòng ngủ, chào các bạn tôi rồi mở tủ lạnh rót nước uống rồi làm món bắp rang
bơ. Trông thấy cha, một đứa bạn kéo tôi ra hỏi nhỏ:
- Mặt ba bạn bị làm sao vậy?
Đột nhiên tôi đưa mắt nhìn cha, đó là lần đầu tiên trong đời tôi
nhìn cha mình bằng con mắt của một người chưa từng nhìn thấy cha. Tôi bị sốc -
cha tôi quái dị vậy sao! Tôi yêu cầu mọi người rời khỏi nhà tôi ngay lập tức và
đưa họ về nhà. Tôi cảm thấy mình thật ngờ nghệch. Làm sao trước đây tôi lại
không thể thấy được điều này nhỉ?
Đêm đó tôi đã khóc thật nhiều - chẳng phải do xấu hổ vì thấy cha
khác biệt mọi người mà vì tôi nhận ra mình xử sự thật nông nổi và đáng khinh.
Tôi có một người cha dịu dàng và nhân hậu mà bao người mơ ước thế mà tôi lại nỡ
đi phán xét người qua hình dạng bên ngoài.
Đêm đó, tôi cũng hiểu ra rằng một khi đã hết lòng yêu thương ai
đó mà lại nhìn người ấy với cặp mắt lạnh lùng, sợ hãi và khó chịu, bạn sẽ hiểu
rõ được ý nghĩa sâu xa của hai chữ, "thành kiến". Tôi đã nhìn cha như
một người chưa từng quen biết lần đầu gặp cha, để rồi thấy cha mình trở thành
một ai đó khác, dị dạng và không bình thường. Tôi đã hoàn toàn quên rằng đó là
một người tốt, hết mực thương yêu vợ con và cả những người xung quanh. Cha cũng
có niềm vui và nỗi khổ của riêng mình và cũng sống cuộc đời như những người
đang xét đoán cha dựa vào bề ngoài của cha. Tôi vô cùng biết ơn vì cuộc đời đã
cho tôi biết được cha trước khi có người nào đó chỉ cho tôi những khiếm khuyết
trên cơ thể cha.
Giờ cha tôi đã khuất xa. Tất cả gia tài cha để lại là sự cảm
thông, lòng nhân hậu và sự quan tâm đến mọi người xung quanh. Với tôi, đó chính
là quà tặng quý báu nhất mà một người con có thể thừa hưởng từ đấng sinh thành.
Đó chính là khả năng chấp nhận, yêu thương người khác bất kể địa vị, chúng tộc,
tôn giáo hay những khuyết tật trên cơ thể họ, những món quà do lòng kiên trì và
tính lạc quan mang lại. Mục tiêu cao cả trong cuộc đời tôi là hãy luôn thương
yêu để tôi có thể đón nhận đủ các nụ hôn làm xẹp cả mũi tôi.
Chương 41: Dời núi
Tương lai thuộc về những ai biết tin vào cái đẹp trong những
giấc mơ của chính mình.
- Eleanor Roosevelt
Đã mấy lần, Carolyn, con gái tôi cứ khẩn khoản gọi điện thoại
mời tôi.
- Mẹ ơi, nhất định mẹ phải đến đây xem vườn hoa thủy tiên trước
khi chúng tàn mẹ nhé!
Tôi rất muốn đi, nhưng nghĩ đến hai giờ lái xe từ Laguna tới
Lake Arrowhead là tôi lại thấy ngại. Cho đến lần gọi thứ ba, biết là khó từ
chối, tôi đành phải đồng ý và hứa sẽ đến chỗ nó vào thứ ba tuần sau dù trong
bụng vẫn còn hơi lưỡng lự.
Sáng thứ ba, lúc sắp sửa đi thì bỗng trời đổ mưa tầm tã và gió
thổi lạnh buốt, nhưng vì đã hứa với con nên tôi cũng lái xe đi đến chỗ nó. Sau
khi bước chân vào nhà ôm hôn Carolyn và những đứa cháu ngoại xong, tôi nói
ngay:
- Hãy quên chuyện hoa thủy tiên của cô đi nhé! Trời bên ngoài
mây và sương mù dày đặc, chẳng thấy đường đâu mà đi nữa. Nếu không vì con và
mấy đứa cháu ngoại của mẹ thì chuyện gì xảy ra chăng nữa cũng đừng hòng lôi được
mẹ ra ngoài đường trong thời tiết này đâu!
Con gái tôi mỉm cười, ôn tồn nói:
- Mẹ à! Có lúc nào không có sương mù đâu?
- Thôi được. Nhưng con đừng bắt mẹ phải ra đường lúc này nữa đấy
nhé! Mẹ sẽ chờ cho đến khi trời quang đãng là mẹ về nhà ngay - tôi nói với
Carolyn giọng chắc nịch.
- Con đang mong là mẹ sẽ chở con đến chỗ sửa xe để con lấy xe.
- Có xa không?
- Chỉ vài dãy phố thôi mẹ! - Carolyn đáp.
Nghĩ đoạn đường cũng ngắn, tôi đứng lên ra xe. Con gái tôi nói.
- Mẹ để con lái cho. Đường ở đây con quen.
Nhiều phút trôi qua, tôi sốt ruột hỏi.
- Con chở mẹ đi đâu vậy? Đây đâu phải là đường đến chỗ sửa xe?
- Chúng ta sẽ theo đường khác đến đó, xa hơn một chút - Carolyn
cười - đường của những bông hoa thủy tiên.
- Carolyn - tôi nghiêm giọng - con quay xe lại ngay.
- Mọi việc sẽ ổn mà mẹ, con hứa đấy. Mẹ cứ xem đi rồi có giận
con, con cũng chịu. Nhưng con tin rằng sau khi xem xong, thể nào mẹ cũng tự
trách mình sao lại không đến đây sấm hơn.
Khoảng 20 phút sau, chúng tôi rẽ vào một con đường hẹp rải đầy
sỏi. Từ xa tôi đã nhìn thấy một nhà thờ nhỏ. Bên cạnh nhà thờ có tấm bảng với
dòng chữ được viết nắn nót: "Vườn Hoa Thủy Tiên". Chúng tôi bước ra
khỏi xe. Tôi và Carolyn, mỗi người dắt tay một cháu, và tôi chậm rãi bước theo
Carolyn.
Được một lúc, chúng tôi rẽ vào một con đường. Và khi đưa mắt
nhìn lên, tôi chợt sững sờ. Trước mắt tôi hiện ra một quang cảnh tuyệt mỹ mà
chưa bao giờ tôi được nhìn thấy. Một màu vàng sáng rực cả một góc trời, như thể
ai đó đã lấy một chum vàng khổng lồ rót lên trên đỉnh núi và rải đều xuống khắp
các triền dốc. Những bông hoa được trồng thật cẩn thận và có nghệ thuật, xoáy
tròn thành hình những dải ruy băng rộng và những vệt đan xen đủ màu sắc: cam
đậm, trắng, vàng chanh, hồng da cam, vàng nghệ và cả vàng phơn phớt.
Mỗi một sắc màu khác nhau được trồng thành từng nhóm riêng biệt
để chúng cuộn lại và tuôn chảy như dòng sông mang màu sắc riêng của mình. Toàn
bộ khu vườn rộng khoảng năm mẫu Anh.
- Ai đã trồng khu vườn này vậy con? - tôi hỏi Carolyn.
- Chúng được một phụ nữ trồng đấy mẹ! Bà ấy sống trên mảnh đất
này. Nhà của bà ấy kia kìa!
Carolyn đưa tay chỉ một ngôi nhà gỗ còn chắc chắn.
Nó trông nhỏ nhắn và khiêm tốn giữa khung cảnh lộng lẫy ở nơi
đây. Chúng tôi bước về phía căn nhà. Trên mái hiên treo một tấm biển với dòng
chữ: "Lời đáp cho những câu hỏi mà tôi biết là bạn sắp hỏi. "
Câu trả lời thứ nhất rất đơn giản: "50.000 cây. "
Câu trả lời thứ hai: "Mỗi lần trồng một cây, do một người
phụ nữ có hai tay, hai chân và một bộ não rất nhỏ thực hiện. "
Câu trả lời thứ ba: "Bắt đầu trồng từ năm 1958. "
Đó chính là nguyên tắc hoa thủy tiên.
Với tôi, giây phút đó là một bước ngoặt trong đời. Tôi nghĩ về
người phụ nữ mà tôi chưa từng gặp, người mà hơn 40 năm trước, đã bắt đầu mỗi
lần bằng một cây thủy tiên, để khoác lên một đỉnh núi vô hồn, không tên không
tuổi tầm nhìn của mình về vẻ đẹp và niềm vui. Tuy nhiên, chính việc làm nhỏ
nhoi, mỗi lần trồng một cây thủy tiên, kéo dài qua nhiều năm tháng của bà đã
làm thay đổi cả một cảnh quan của thế giới.
Người phụ nữ vô danh này đã mãi mãi làm thay đổi thế giới mà bà
đang sống. Bà đã tạo ra một khung cảnh nguy nga không thể tả bằng lời, một nét
đẹp siêu nhiên và gọi lên biết bao cảm hứng. Nguyên tắc mà khu vườn thủy tiên
của bà truyền lại cho mọi người là một trong những nguyên tắc vĩ đại nhất về
cách tán dương cuộc đời. Đó là, biết hướng đến những mục tiêu và khát vọng của
chúng ta từng bước một, giống như một đứa bé chập chững tập từng bước đi, biết
quý trọng công việc của mình và biết cách tích lũy thời gian.
Khi chúng ta biết nhân những mảnh thời gian nhỏ, cộng với những
nỗ lực tăng dần mỗi ngày, ta sẽ nhận thấy rằng ta có thể đạt được những điều kỳ
diệu. Và như thế chúng ta có thể thay đổi được thế giới.
- Mẹ thấy buồn là - tôi thú nhận với Carolyn - có thể mẹ cũng đã
hoàn thành được điều gì đó nếu 35 hay 40 năm trước đây mẹ nghĩ đến một mục tiêu
to lớn và kiên trì theo đuổi nó theo cách "mỗi lần trồng một cây"
trong suốt ngần ấy năm. Cứ nghĩ xem nếu vậy mẹ đã có thể làm được gì nào?
Như mọi lần, con gái tôi đã tóm tắt thông điệp chúng tôi nhận
được của ngày hôm đó.
- Hãy bắt đầu ngay từ ngày mai.
Đúng vậy, thật vô nghĩa khi cứ suy nghĩ về thời gian đã mất đi
của ngày hôm qua. Phương pháp mà chúng ta thực hiện bài học về cách tán dương
cuộc đời thay vì cố tìm một lý do để tiếc nuối đó là trả lời câu hỏi "Ta
có thể ứng dụng bài học ngày hôm nay như thế nào đây?".
Chương 42: Khung cửa lấp lánh
Hoa hạnh phúc mọc ngay bên cạnh chúng ta chứ không phải hái ở
trong vườn người khác.
- Douglas Jerrold
Có cậu bé nọ sống trong một nông trại xa xôi hẻo lánh. Mỗi sáng,
cậu phải thức dậy trước lúc mặt trời mọc để phụ giúp việc lặt vặt. Đến chiều,
cậu lại ra khỏi nhà để làm việc suốt buổi tối.
Ngày nào cũng vậy, lúc mặt trời đứng bóng, cậu dừng tay một lát
và leo lên hàng rào nhìn ngắm ngôi nhà có những khung cửa sổ bằng vàng ở tít
đằng xa. "Phải chi mình được sống trong ngôi nhà đó nhỉ!" Chắc là
tuyệt lắm, cậu thầm nghĩ. Rồi cậu thả hồn hình dung ra những đồ dùng trong ngôi
nhà. Nếu họ có thể trang trí những cửa sổ bằng vàng như thế thì hẳn đồ đạc
trong nhà cũng phải sang trọng lắm. Cậu tự hứa một ngày nào đó nhất định mình
sẽ đến thăm ngôi nhà lộng lẫy ấy.
Một buổi sáng, cha cậu bảo cậu hãy ở nhà để ông làm việc một
mình. Hiếm khi có dịp rảnh việc thế này, cậu lập tức gói bánh mì đem theo và
băng qua cánh đồng, hướng thắng tới ngôi nhà có những chiếc cửa sổ bằng vàng.
Đến quá trưa, cậu đã đứng ngay trước ngôi nhà. Cậu tần ngần
tưởng mình đi nhầm. Ngôi nhà này chẳng có chiếc cửa sổ bằng vàng nào hết! Thay
vào đó chỉ là một căn nhà tồi tàn, loang lổ màu sơn, được quây kín bằng dãy
hàng rào đổ nát. Cậu bé bước đến cánh cửa treo tấm màn rách tả tơi và đưa tay
lên gõ. Một cậu bé trạc tuổi cậu ra mở cửa. Cậu bé mới đến hỏi:
- Có phải ngôi nhà này có những khung cửa sổ bằng vàng không?
- Tớ hiểu rồi - cậu bé kia đáp rồi mời cậu ngồi lên hiên nhà. Ớ
đó, cậu nhìn lại phía ngôi nhà của mình và trông thấy ánh nắng chiều rọi chiếu,
khiến những khung cửa sổ trở nên óng ánh như được làm bằng vàng.
Chương 43: Chuyện xây cầu Brooklyn
Cầu Brooklyn bắc ngang con sông nằm giữa hai thành phố Manhattan
và Brooklyn phải nói là phép lạ của ngành xây dựng. Vào năm 1883, một kỹ sư
giàu óc sáng tạo tên là John Roebling, lòng đầy hứng khỏi khi nảy ra ý kiến xây
một cây cầu thật ngoạn mục bắc ngang hai thành phố này. Tuy nhiên, khi nghe ông
trình bày ý tưởng táo bạo đó không một chuyên gia về cầu đường nào chịu hợp tác
với ông. Họ cho rằng ông điên và bảo ông rằng hãy quên điều đó đi vì không thể
nào làm được cây cầu như vậy. Không nản lòng, ông về nhà thuyết phục con trai
mình là Washington cũng là một kỹ sư đầy tiềm năng, rằng có thể xây được cây
cầu như vậy. Cả hai cha con cùng ấp ủ ý muốn hoàn thành cây cầu và bàn luận về
cách vượt qua mọi trở ngại. Dau sao, các ngân hàng cũng tin họ và đồng ý bỏ
tiền ra cho dự án xây cầu. Hết sức phấn kích và nhiệt thành, họ tuyển nhân công
và bắt đầu xây cây cầu trong mơ của mình.
Dự án tiến hành được vài tháng thì tai họa ập đến. Một tai nạn
ngay tại công trường đã cướp đi chính sinh mạng John Roebling và con trai ông
bị thương nặng ở đầu. Washington sau tai nạn ấy đã không thể đi đứng và nói
được. Ai cũng nghĩ là dự án cuốii cùng sẽ tan thành mây khói vì chỉ có cha con
Roebling là những người duy nhất hiểu được cách xây chiếc cầu này.
Mặc dầu không thể đi lại và nói chuyện, đầu óc Washington
Roebling vẫn còn rất tinh anh. Một hôm, đang nằm trong bệnh viện, trong đầu ông
chợt nghĩ ra cách "nói chuyện" với người khác. Vận động duy nhất của
cơ thể ông hiện thời là nhúc nhích một ngón tay và ông nghĩ ra một bộ mã truyền
tin. Với bộ mã này, ông chạm vào tay vợ mình và dùng ngón tay còn chuyển động
được gõ ra ý nghĩ của mình để thông tin với vợ những gì cần nói với các kỹ sư
vẫn đang tiếp tục xây dựng cây cầu. Trong suốt 13 năm, Washington đã ra lệnh
bằng ngón tay duy nhất còn chuyển động của mình cho đến khi cây cầu Brooklyn kỳ
vĩ mà chúng ta nhìn thấy ngày hôm nay hoàn thành.
Chương 44: Nỗi đau sẽ đi qua và cái đẹp ở lại
"Nếu phải chọn một cá tính theo suốt cuộc đời, hãy chọn óc
khôi hài. "
- Khuyết danh
Dẫu Henri Matisse trẻ hơn August Renơir gần hai chục tuổi, cả
hai họa sĩ vĩ đại này luôn là đôi bạn chân tình và gắn bó với nhau. Khi Renơir
bị lâm bệnh và giam mình trong căn nhà hơn 10 năm cuối cùng của mình, Matisse
mỗi ngày đều ghé qua thăm bạn. Renơir -gần như bị tê liệt bởi chứng bệnh phong
thấp rất nặng -vẫn tiếp tục vẽ trong tình trạng đau đớn đó. Một ngày kia, khi
quan sát người bạn già làm việc trong phòng vẽ, cố gắng chống lại cơn đau đang
dầy vò thân xác ông qua từng nét cọ, Matisse thảng thốt la lên rằng:
- August ơi! Tại sao anh không nghỉ mà cứ vẽ khi phải chịu đau
đớn như thế?
Renoir chỉ khẽ khăng nhìn bạn trả lời rằng:
- Nỗi đau sẽ qua đi và cái đẹp ở lại.
Và cứ thế gần như cho đến ngày lìa trần, Renoir tiếp tục kéo
những nhát cọ lên các bức toan. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của
ông, Những người phụ nữ đang tắm, đã được hoàn thành trước khi ông qua đời, tức
là mười bốn năm sau khi ông phải đương đầu chịu đựng với căn bệnh quái ác này.
Chương 45: Chiếc giày đánh rơi của Gandhi
"Nghịch cảnh và khó khăn giống như tấm nệm, khi ở trên
chúng bạn cảm thấy khoan khoái và êm ái - còn khi ở dưới, bạn sẽ bị chúng làm
cho ngộp thở. "
- Khuyết danh
Có lần trong lúc vội bước lên xe lửa, Mahatma Gandhi đánh rơi
một chiếc giầy xuống đường ray và không thể nào lấy lên được vì xe lửa đã lăn
bánh. Ông Gandhi bèn cởi ngay chiếc giầy còn lại và ném xa xuống đường ray gần
nơi chỗ chiếc giầy đã rớt, trước sự ngạc nhiên của những người trên xe.
Một hành khách không kìm được thắc mắc đã lên tiếng hỏi ông tại
sao lại làm như vậy.
Gandhi đáp:
- Một người nghèo nào đó tìm thấy chiếc giầy trên đường ray thì
họ sẽ tìm thấy chiếc thứ hai và như vậy họ sẽ có đủ cả đôi để dùng.
Chương 46: Lá thư người mẹ
"Người mẹ luôn là nơi chở che khi giông tố cuộc đời ập đến
với đứa con của mình. "
- Khuyết danh
Con thân yêu!
Lâu rồi mẹ không nhận được thư con. Lần về thăm nhà, dù con
không nói và cố tỏ ra vui nhưng mẹ đã linh cảm con đang gặp phải một chuyện gì
đó không may, con đang rất buồn, thất vọng và đuối sức. Mẹ không lên thăm con
vào lúc này vì mẹ biết con sẽ không thổ lộ với mẹ, muốn tự vượt qua và sự có
mặt của mẹ đôi khi sẽ làm con yếu lòng hơn mà thôi.
Cuộc sống vốn không bằng phẳng khi con từng mong ước thời còn đi
học hay trên ghế giảng đường. Mọi chuyện đều có thể xảy ra, một cách bất ngờ
nhất. Mẹ chợt thấy mình có lỗi với con khi luôn dành cho con tình yêu thương,
chăm sóc mà chưa chuẩn bị cho con tinh thần và cách đối mặt khi điều bất hạnh
xảy đến. Mẹ không muốn những khó khăn, nỗi đau mà mẹ đã từng trải qua hay đã
từng biết sẽ lại đến với con. Mẹ không sắp xếp được những cảm xúc, suy nghĩ và
những điều mẹ muốn nói với con trong thư này có thể rộng hơn những gì con đang
gặp phải nhưng con hãy đọc và giữ nó - nó có thể sẽ còn cần cho con sau này.
Con hãy đón nhận mọi sự việc bằng sự dũng cảm nhìn thắng vào sự
thật. Con đừng chạy trốn vị trí của mình mà hãy biết phân tích với đúng bản
chất những gì đã diễn ra, hãy tự tin vượt lên, khắc phục và mạnh dạn đấu tranh
với những trở ngại bằng tấm lòng thực sự, bằng sự hướng thiện và nhìn rõ những
gì mình chưa hoàn thiện. Con đừng bao giờ bỏ cuộc với cảm giác cuộc sống không
còn lối thoát trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Cuộc sống không thể trở nên bế tắc
hoàn toàn một khi con người còn tin vào chính mình.
Hãy biết chấp nhận và tha thứ. Đừng cố gắng bói móc lỗi lầm của
người khác, hãy biết tha thứ nhưng nên nghiêm khắc nhìn lại mình. Con hãy cho
mà không cần nhận lại hay tính toán thiệt hơn. Ngay cả khi cần được an ủi nhất,
con hãy giang rộng vòng tay và chia sẻ, nâng đỡ những người cần cảm thông giúp
đỡ xung quanh - vì trong lúc chia sẻ với người khác con sẽ tìm lại sức mạnh và
niềm tin cho chính mình. Đừng quá thương hại mình. Tự thương hại sẽ làm giảm
sức mạnh vốn có của con.
Con hãy nhớ rằng còn nhiều người yêu thương con và cuộc sống của
con có giá trị và ý nghĩa với người khác. Con đừng ngại mở lòng với tình yêu vì
chỉ có tình cảm thật sự mới giúp con tìm được chính mình. Hãy chia sẻ niềm vui
và nỗi buồn với người con yêu quí. Tình yêu luôn là điều kỳ diệu! Đe vượt qua
những thử thách, khó khăn, hãy gìn giữ những kỷ ức, kỷ niệm đẹp. Một khi lòng
yêu thương, tình yêu gặp trắc trở hay có sự đổi thay, mất mát thì con đừng vội
xóa đi những gì đã từng là của con. Con luôn hiểu là tình yêu trong con không
hề mất, nó luôn hiện hữu trong tâm hồn con cho dù có thể nó có lúc không còn
tồn tại. Khi người khác mang trái tim họ ra đi thì trái tim người ở lại vẫn còn
nguyên vẹn nhưng người ta có khuynh hướng tự dằn vặt, tự hành hạ cho đến khi
trái tim của mình rươm máu, đau đớn tột cùng mới nhìn lại sự việc. Con hãy cố
gắng đừng để mất theo những điều không đáng mất khác như sức khỏe, thời gian,
niềm tin ở chính mình và các mối quan hệ khác...
Cuộc sống của con liên quan đến nhiều người. Hãy luôn tin ở con
người và khám phá những điều tốt đẹp riêng biệt của từng người. Dù vậy cũng
không nên đặt tất cả niềm tin của con vào một người hay một sự việc mà con chưa
nắm vững và nhìn thế giới qua lăng kính đó để con không phải vất vả trở về với
chính mình nếu có sự đổi thay xảy ra vì bất kỳ lý do gì.
Con đừng ngại đối diện với nỗi buồn, sự thất vọng và cô đơn -
đôi khi sự cô đơn thực sự sẽ giúp con hiểu và chiêm nghiệm được nhiều điều bổ
ích, sâu sắc, đừng đắm chìm triền miên trong sự than trách yếu đuối. Con đừng
vội đi tìm một điều gì đó chưa chắc chắn thay thế - vì con vẫn sẽ phải quay lại
vấn đề chưa giải quyết được đôi khi phức tạp hơn hay với tâm thế không tốt như
ban đầu. Con hãy bắt tay vào công việc mà con yêu thích ngay cả lúc con chán
nản nhất và không muốn làm việc, vì chỉ có công việc thực sự chứ không phải sự
nhàn rỗi sẽ giúp con tìm lại được niềm vui và niềm tin cuộc sống.
Đừng quá lệ thuộc vào những định ưởc khuôn mẫu. Như con đã từng
biết: "Mất tiền là không mất gì - mất sức khỏe là mất nhiều, còn mất danh
dự là mất tất cả" nhưng với ý chí nhiều người đã chiêm nghiệm và thực hiện
được trong thực tế cuộc sống khác với câu châm ngôn ấy: "Mất tiền thì bạn
sẽ có thể làm lại được ra tiền - mất sức khỏe bạn có thể tìm lại được sức khỏe
của mình - mất danh dự bạn vẫn có thể khôi phục được danh dự nếu con có niềm
tin và thời gian - mất niềm tin bạn vẫn có thể tìm lại được niềm tin bằng sự cố
gắng, nghị lực và tình cảm con người - và chỉ khi bạn thôi không cố gắng nữa
hay buông xuôi bạn mới có khả năng mất tất cả. !
Thước đo cho sự thành công hay giá trị của con và người khác
không phải là những giá trị vật chất hay danh vọng. Những giá trị về tinh thần
và niềm tin mới có giá trị lâu dài. Cuộc đời như một hành trình leo núi đầy khó
khăn. Hãy luôn hướng về phía trước - đừng quay đầu ngoái lại quá lâu với những
gì con đã vượt qua, đã làm được, hay đã thất bại. Hạnh phúc là cảm giác thực
trên từng chặng đường đi chứ không phải chỉ là cảm giác tới đích. Nếu có lúc
nào đó con cứ loay hoay, trăn trở, dằn vặt khá lâu thì khi nhận ra được con
đừng bận tâm, ân hận vì điều đó mà hãy mạnh dạn lên đường bước tiếp. Bất kỳ
thời điểm nào đều có thể là điểm khỏi đầu tốt nhất cho con!
Những câu nói chưa suy nghĩ kỹ có thể bị hiểu nhầm, gây tổn
thương người khác hay làm con mất đi sự tự tin nên hãy suy nghĩ, tìm hiểu kỹ về
những điều, những dự định sắp làm, những gì con sắp hứa hay những điều con sẽ
nói. Đừng ngại nói lời xin lỗi chân thành hay nhìn nhận những gì mình chưa làm
được, chưa hoàn thiện.
Ngay cả lúc thất vọng nhất, con hãy luôn nghĩ về những điều con
từng ước mơ, hãy mạnh dạn và hãy tự tin, trầm tĩnh, vững vàng. Con hãy làm theo
cách, đi những con đường mà con đã suy nghĩ là đúng dù có thể chưa ai đi. Sự
thử thách càng lớn thì khi vượt qua được thế đứng và tầm nhìn càng cao.
Đừng quá tự dằn vặt hay nuối tiếc những gì đã qua, về những gì
con đã làm. Không vấp ngã trong cuộc sống là một điều tốt, nhưng vấp ngã mà
đúng dậy đi vững vàng thì là một điều càng tốt hơn. Cuộc đời ai cũng có lần vấp
ngã - sau mỗi lần vấp ngã, sai lầm người ta sẽ có được kinh nghiệm sống quí giá
hơn. Không ai đánh giá một giai đoạn vừa qua như một cách sống của con cả. Điều
quan trọng là cách con vượt qua và cuộc sống sau này của con sẽ thế nào. Tất cả
tùy thuộc vào con.
Con vẫn có thể nghe lời mẹ khuyên, học tập kinh nghiệm từ người
khác, từ những câu chuyện con biết được, từ trong sách vở, báo chí, bè bạn và
người thân - nhưng khi chính con trải qua rồi thì điều đó mới chính thực sự là
của con. Có khi thử thách nghiệt ngã và khó khăn như một điều may mắn vì người
ta lớn lên, trưởng thành thực sự chính bằng kinh nghiệm và nghị lực đối đầu với
khó khăn chứ không ai trưởng thành lên chỉ bằng lý thuyết hay kinh nghiệm của
người khác. Trong bất kỳ thời điểm nào con hãy trân trọng với những gì đang có
và hãy cảm nhận mọi khía cạnh của cuộc sống. Con đừng qui kết cho số phận mà
hãy cố hết sức mình.
Con chớ quên tình cảm luôn là nguồn động viên lớn nhất, con đừng
quên những điều bình dị, những nơi chốn thân thương từng gắn bó với tuổi thơ
của mình, những kỷ niệm đẹp, cả những người bạn mà không còn gặp lại, những câu
chuyện từng làm con xúc động sâu sắc - tất cả những điều đó tưởng chừng sẽ làm
đau con hơn nhưng chính những điều đó sẽ giúp con vượt qua khó khăn bằng đôi
chân và tâm hồn của chính mình. Nên học hỏi từ người khác nhưng đừng lấy người
khác làm thước đo giá trị của mình vì con luôn phải là con với tất cả những
điều cần hoàn thiện, những điều bình dị và thật riêng của mình. Vượt qua được nỗi
buồn sẽ giúp con tìm ra những giá trị mới mà trước đây con chưa nhận ra.
Con đừng mong muốn tất cả mọi người phải hiểu mình, chỉ cần
chính con hay một người hiểu là đã đủ cho con rồi. Hãy sống thật với cảm xúc
của chính mình, những giọt nước mắt, những lời chân thật từ trái tim trong một
lúc nào đó sẽ giúp con vơi nhẹ nỗi buồn xúc cảm tổn thương. Hãy trầm tĩnh và
bao dung với những người đã gây cho con nỗi đau.
Mỗi ngày sẽ là một ngày mới với những điều tốt lành và bất ngờ
nhất sẽ đến cùng với sự cố gắng của mình. Những gì đã qua sẽ trở thành vốn sống
của con. Cuộc sống không có điều gì mất đi mà không mang đến cho ai đó điều gì
mới mẻ, bổ ích hơn. Nếu con chưa tìm được thì con hãy suy nghĩ sâu sắc, tĩnh
lặng để nhận ra điều đó và đừng lãng phí thời gian một khi con đã hiểu. Những
gì con cho đi hôm nay từ trái tim chắc chắn con sẽ nhận lại được từ trái tim -
ngày mai hoặc sau này. Và con đừng chỉ cầu mong, mơ ước không mà hãy hành động.
Hãy sống giản dị, chân thành và thật lòng.
Con hãy tin là cuộc sống luôn có luật nhân quả, sẽ luôn công
bằng, có trước có sau với tất cả mọi người, với những gì con đang thực lòng suy
nghĩ, đang làm và hướng đến hôm nay. Chính con mới là người hiểu rõ được những
gì mà con có thể làm được và nên làm. Con hãy tin vào điều kỳ diệu và nhiệm màu
của tâm hồn con người, của cuộc sống - và nhất là tin vào chính con. Một ngày
mới sẽ mở ra cho con.
Mẹ tin ở con.
Người bạn của con.
Mẹ
- First News
Chương 47: Viên ngọc người mẹ
Cornelia, mẹ của Gracchi, một lần đón tiếp một phụ nữ từ
Campania tại nhà mình. Khi người phụ nữ khoe khoang những hạt ngọc của bà ta là
những viên ngọc đẹp nhất thời bấy giờ., Cornelia tiếp tục trò chuyện với bà ta
cho đến khi những đứa con của mình từ trường trở về. Rồi chỉ vào những đứa trẻ
nói: "Đây là những viên ngọc của tôi. "
- Từ Valerus Maximux (1st century)
HẾT TẬP 2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét